“Mỏ vàng” của nền kinh tế sáng tạo
Ngày 14/11/2025, Thủ tướng Chính phủ ký ban hành Quyết định 2486/QĐ-TTg, phê duyệt Chiến lược phát triển các ngành CNVH Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 (Chiến lược). Đây là văn kiện mang tính bước ngoặt. Lần đầu Việt Nam xác định rõ ràng CNVH như một trụ cột kinh tế với định hướng, mục tiêu, ngành nghề, chính sách và lộ trình thực hiện cụ thể.
Cụ thể, theo Chiến lược, các ngành CNVH Việt Nam bao gồm: Điện ảnh; Mỹ thuật, nhiếp ảnh và triển lãm; Nghệ thuật biểu diễn; Phần mềm và các trò chơi giải trí; Quảng cáo; Thủ công mỹ nghệ; Du lịch văn hóa; Thiết kế sáng tạo; Truyền hình và phát thanh; Xuất bản. Đây là những ngành tạo ra các sản phẩm kết hợp yếu tố văn hóa, sáng tạo, công nghệ và quyền sở hữu trí tuệ, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng, hưởng thụ văn hóa của người dân và phù hợp với mục tiêu hội nhập quốc tế, phát triển bền vững đất nước.
“Phát triển các ngành CNVH trở thành các ngành kinh tế quan trọng, phấn đấu tăng trưởng ở mức cao và gia tăng kim ngạch xuất khẩu những sản phẩm CNVH thuộc các lĩnh vực trọng tâm, trọng điểm; góp phần quảng bá, lan tỏa các giá trị lịch sử, văn hóa, con người Việt Nam và khẳng định thương hiệu, vị thế quốc gia trên trường quốc tế. Phát triển công nghiệp giải trí đáp ứng nhu cầu giải trí đa dạng của người dân và du khách; tăng cường kết nối cộng đồng, tôn vinh các giá trị truyền thông và xuất khấu các sản phẩm công nghiệp giải trí ra thế giới”, Chiến lược đặt ra mục tiêu chung.
Mục tiêu đến năm 2030, các ngành CNVH đạt tốc độ tăng trưởng bình quân khoảng 10%/năm và đóng góp 7% GDP của đất nước. Lực lượng lao động trong các ngành CNVH bình quân tăng 10%/năm, chiếm tỷ trọng 6% trong tổng lực lượng lao động của nền kinh tế. Tốc độ tăng trưởng về số lượng các cơ sở kinh tế hoạt động trong các ngành CNVH bình quân đạt 10%/năm. Phấn đấu tốc độ tăng trưởng về giá trị xuất khẩu của các ngành CNVH bình quân đạt 7%/năm…
Mục tiêu đến năm 2045, phấn đấu các ngành CNVH Việt Nam phát triển bền vững, trong đó doanh thu đóng góp 9% GDP của đất nước, lao động chiếm tỷ trọng 8% trong tổng lực lượng lao động của nền kinh tế, quy mô các sản phẩm CNVH số chiếm tỷ trọng trên 80% sản phẩm CNVH, tăng trưởng về giá trị xuất khẩu của các ngành CNVH đạt 9%/năm và trở thành quốc gia phát triển về CNVH, công nghiệp giải trí trong khu vực châu Á, khẳng định vị thế của Việt Nam trên bản đồ CNVH thế giới.
Hành lang pháp lý biến lợi thế văn hóa thành sức mạnh kinh tế
Tại sao lần đầu Việt Nam lại xác định rõ ràng CNVH như một trụ cột kinh tế? Để trả lời câu hỏi này, cần xuất phát từ góc nhìn những ưu thế độc đáo của CNVH Việt Nam. Trước hết, nước ta có một nguồn lực văn hóa, di sản, bản sắc rất đa dạng, từ di tích, di sản vật thể và phi vật thể; các làn điệu dân ca, nhạc cụ truyền thống; nghệ thuật dân gian; văn hóa các dân tộc; cho đến nghề thủ công truyền thống, ẩm thực… Đây là lợi thế lớn để phát triển các ngành CNVH trong danh sách ưu tiên của Chiến lược. Không chỉ có giá trị nội tại, các yếu tố văn hóa, bản sắc này còn là “giá trị mềm” giúp Việt Nam khác biệt trên thị trường toàn cầu, khi mà xu hướng tiêu dùng hướng tới trải nghiệm, bản sắc, sáng tạo, thay vì chỉ vật chất đơn thuần.
Một trong những mục tiêu của Chiến lược là “phát triển công nghiệp giải trí đáp ứng nhu cầu giải trí đa dạng của người dân”. Đối tượng hướng đến của CNVH là tầng lớp dân số trẻ với nhu cầu tiêu dùng văn hóa, giải trí rất lớn. Việt Nam có tỷ lệ dân số trẻ cao, năng động, dễ tiếp cận công nghệ, đây là điều kiện thuận lợi để phát triển các ngành CNVH hiện đại như điện ảnh, phần mềm trò chơi giải trí, quảng cáo, truyền thông, nghệ thuật biểu diễn. Cùng với đó, đời sống được nâng cao, nhu cầu hưởng thụ văn hóa, giải trí, sáng tạo tăng mạnh. Đây là động lực thị trường nội địa to lớn, giúp CNVH không chỉ phục vụ xuất khẩu mà trước hết đáp ứng nhu cầu trong nước, từ giải trí, thẩm mỹ đến nhu cầu bản sắc, trải nghiệm văn hóa.
Trong bối cảnh khủng hoảng nhiên liệu toàn cầu dẫn đến khủng hoảng kinh tế, CNVH với bản chất là ngành sáng tạo, sản xuất các sản phẩm dịch vụ dựa trên bản sắc, trí tuệ, nghệ thuật, công nghệ nên có lợi thế “sạch”, không tiêu tốn quá nhiều tài nguyên thiên nhiên, ít phụ thuộc vào tài nguyên khoáng sản. Đồng thời, sản phẩm CNVH thường mang giá trị gia tăng rất cao: một bộ phim, một trò chơi, một thiết kế, một sản phẩm thủ công mỹ nghệ có thể được tái sản xuất, tiêu thụ nhiều lần, lan tỏa rộng rãi, giá trị xuất khẩu dễ nâng cao. Đây chính là loại hình kinh tế phù hợp với xu hướng phát triển bền vững, kinh tế sáng tạo và dễ hội nhập quốc tế...
Đây là mục tiêu trong Kế hoạch thực hiện Quy hoạch mạng lưới cơ sở văn hóa và thể thao thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2045 mới được Bộ VH,TT&DL ban hành. Kế hoạch nói trên nhằm triển khai thực hiện có hiệu quả Quyết định số 991/QĐ-TTg ngày 16/9/2024 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch mạng lưới cơ sở văn hóa và thể thao thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Theo Kế hoạch, đến năm 2045, mạng lưới cơ sở văn hóa và thể thao quốc gia sẽ được phát triển cân đối, trở thành thương hiệu, đại diện cho nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc; Bộ VH,TT&DL chủ trương phát triển mạng lưới cơ sở văn hóa và thể thao gắn với cơ chế thị trường, là nguồn lực phát triển CNVH và kinh tế thể thao.
Để CNVH là một trụ cột kinh tế thì Quyết định 2486/QĐ-TTg ngày 14/11/2025 được coi là hành lang pháp lý, định hướng dài hạn nhằm biến lợi thế văn hóa, tiềm năng sáng tạo thành sức mạnh kinh tế. Đây cũng là cơ sở để CNVH không bị phân mảnh, manh mún, mà phát triển hệ thống, bền vững và có sức cạnh tranh. Với các chỉ tiêu đề ra, nếu đạt được, CNVH sẽ đóng góp đáng kể vào GDP, tạo nhiều việc làm chất lượng cao, giảm áp lực lên các ngành truyền thống. Đây là xu hướng nhiều quốc gia phát triển đã và đang đi theo.
Tuy nhiên, cũng cần phải nhìn thẳng vào những khó khăn, thách thức khi triển khai Chiến lược. Trước hết, mặc dù có Quyết định 2486, nhưng để biến thành hiện thực cần nhiều bước hoàn thiện thể chế, chính sách khuyến khích đầu tư, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, quy hoạch không gian sáng tạo, hỗ trợ doanh nghiệp… hiện tại vẫn còn manh mún, phân tán.
CNVH đòi hỏi người có kỹ năng đa dạng: nghệ thuật, công nghệ, marketing, quản lý, xuất khẩu, sản xuất nội dung. Việt Nam hiện chưa có nguồn nhân lực đủ mạnh về cả số lượng và chất lượng để đáp ứng quy mô đề ra.
Thị trường quốc tế khắt khe, đòi hỏi sản phẩm có chuẩn cao về nội dung, kỹ thuật, thương hiệu. Nếu sản phẩm nội địa chưa đáp ứng được, sẽ khó vươn ra toàn cầu. Bên cạnh đó, khi biến văn hóa thành hàng hóa, có nguy cơ “hàng hóa hóa bản sắc” nghĩa là giảm giá trị tinh thần, biến di sản thành sản phẩm tiêu thụ, mất đi chiều sâu văn hóa nếu không có định hướng phù hợp.
Để phát triển CNVH cần vượt ra rào cản của phân hóa vùng miền, dễ gây bất bình đẳng. Những nơi phát triển như thành phố lớn, trung tâm dễ hưởng lợi hơn vùng sâu, nông thôn, miền núi thiệt thòi nếu không có hỗ trợ dẫn tới khoảng cách phát triển văn hóa, kinh tế, lợi thế không đồng đều….
Như đã nói trên, CNVH chỉ có thể phát triển dựa trên nền tảng những giá trị nội tại, các yếu tố văn hóa, bản sắc của Việt Nam. Chính vì thế nên nhiều góp ý dự thảo Văn kiện Đại hội XIV đã nhấn mạnh về vấn đề phát huy sức mạnh văn hóa -con người Việt Nam.
Tổng Biên tập Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, Bộ VH,TT&DL Hoàng Hà khẳng định, lần đầu tiên, Đảng ta đã xác định xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, đồng bộ trên nền tảng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị gia đình và chuẩn mực con người Việt Nam. Đây là những quan điểm mới mẻ, cơ bản trong dự thảo văn kiện, thể hiện sự phát triển trong tư duy lý luận của Đảng ta. Quan điểm cốt lõi này không chỉ được đúc rút từ truyền thống văn hóa quý báu hàng ngàn năm của dân tộc, cũng như trải qua thực tiễn phong phú của cách mạng Việt Nam mà còn bắt nguồn từ những thành tựu to lớn của công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế sâu rộng hôm nay.
PGS.TS Bùi Hoài Sơn, Ủy viên chuyên trách Ủy ban Văn hóa và Xã hội của Quốc hội nhận định Dự thảo Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XIV của Đảng lần này có nhiều điểm mới, thể hiện bước phát triển quan trọng trong tư duy lý luận và định hướng hành động của Đảng về văn hóa, con người. Một trong những điểm mới đó là văn hóa chính thức được xác lập vị trí ngang tầm với kinh tế, chính trị và xã hội.
Cũng theo PGS.TS Bùi Hoài Sơn, dù Dự thảo Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XIV về văn hóa có nhiều điểm mới quan trọng, vẫn cần tiếp tục hoàn thiện để thực sự trở thành định hướng chiến lược, có tính khả thi cao. Góp ý cho Dự thảo Văn kiện lần này, ông Bùi Hoài Sơn cho rằng cần cụ thể hóa hơn nữa hệ giá trị Việt Nam thời kỳ mới; phải có giải pháp rõ ràng để khắc phục tình trạng đầu tư cho văn hóa chưa tương xứng, trong đó Văn kiện cần bổ sung chỉ tiêu ngân sách cụ thể, cơ chế khuyến khích hợp tác công - tư và xã hội hóa, cũng như quy định rõ trách nhiệm phân bổ nguồn lực của từng cấp, từng ngành; cần có chính sách mạnh mẽ hơn cho phát triển văn hóa số và CNVH...
Nguồn: https://baophapluat.vn/cong-nghiep-van-hoa-mot-tru-cot-cua-nen-kinh-te.html










Bình luận (0)