Nguyên Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường (TN&MT) giai đoạn 2007-2011 Phạm Khôi Nguyên đã mở đầu câu chuyện bằng việc khẳng định tư duy, chủ trương kinh tế hóa ngành từ cách đây hơn 15 năm và cho rằng, khi ngành Nông nghiệp và Môi trường hợp nhất chính là thời khắc lịch sử, cơ hội lớn để hướng tới một tầm nhìn phát triển bền vững - nơi kinh tế, tài nguyên và con người được đặt trong cùng một chỉnh thể.
Nguyên Bộ trưởng Phạm Khôi Nguyên chia sẻ với Báo Nông nghiệp và Môi trường về hành trình "kinh tế hóa ngành TN&MT" - tư duy vượt thời gian, đặt nền tảng cho phát triển xanh, phát triển bền vững. Ảnh: Nguyễn Thủy.
Phải định giá đúng tài nguyên môi trường
Thưa ông, trong nhiệm kỳ 2007-2011 khi ông đảm nhiệm cương vị Bộ trưởng Bộ TN&MT, chủ trương “kinh tế hóa ngành TN&MT” từng mang đến làn gió mới trong quản lý điều hành của ngành. Xin ông chia sẻ lại tư duy lúc đó, vì sao Ban cán sự Đảng khi ấy lại chọn hướng đi này khi nền kinh tế còn nặng về khai thác và quản lý hành chính?
Chủ trương “kinh tế hóa ngành TN&MT” ra đời từ yêu cầu tất yếu của quá trình chuyển đổi nền kinh tế nước ta từ cơ chế bao cấp sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đầu thế kỷ 21, khi các ngành sản xuất, thương mại, dịch vụ đã nhanh chóng thích ứng với cơ chế thị trường, riêng ngành TN&MT vẫn chậm chuyển đổi, chủ yếu điều tra cơ bản, thống kê, đo đạc, mà chưa thực sự được nhìn nhận như một ngành tạo ra giá trị kinh tế, dù TN&MT có thể tạo ra nhiều của cải vật chất, cả trực tiếp và gián tiếp.
Trong nhiệm kỳ đầu tiên, khi Bộ TN&MT bắt đầu thành lập trên cơ sở hợp nhất nhiều lĩnh vực của nhiều bộ, ngành, nguyên Bộ trưởng Mai Ái Trực đã có chủ trương nâng cao hiệu quả hoạt động của các ngành trong Bộ để thu lại hiệu quả kinh tế cho xã hội. Điểm nổi bật nhất là Luật Đất đai 2003 đã đề cập đến đấu giá đất.
Bước sang nhiệm kỳ thứ 2, được bổ nhiệm làm Bộ trưởng, tôi nghĩ cần có một đột phá mới, phải tiếp tục đẩy mạnh chủ trương kinh tế hóa đất đai sang các ngành khác của Bộ, đưa các nguyên lý thị trường vào trong công tác quản lý tài nguyên, gắn kết hiệu quả đầu tư với trách nhiệm xã hội.
Nguyên Bộ trưởng Bộ TN&MT Mai Ái Trực (thứ 2 từ trái sang) và nguyên Bí thư Thành ủy Hà Nội Phạm Quang Nghị cùng nguyên Bộ trưởng Bộ TN&MT Phạm Khôi Nguyên (áo trắng thứ 4 từ trái sang) tại triển lãm thành tựu địa chất. Ảnh: Hoàng Minh.
Một trong những yếu tố quan trọng để đạt được mục tiêu này là phải biết định giá tài nguyên, môi trường đúng đắn, tính toán chi phí - lợi ích trong mọi hoạt động quản lý. Tài nguyên chỉ thực sự có giá trị khi được coi là “nguồn vốn tự nhiên” cho phát triển chứ không phải là tài sản vô chủ.
Khi đó, tôi báo cáo với Thủ tướng Chính phủ và được đồng ý để Bộ xây dựng một Nghị quyết riêng của Ban Cán sự Đảng về “kinh tế hóa ngành TN&MT”. Nghị quyết 27-NQ/BCSDTNMT ra đời cuối năm 2009 xác định rất rõ: Thực sự coi tài nguyên là nguồn lực ngày càng khan hiếm cần phải được thị trường hóa, coi bảo vệ môi trường là thước đo hiệu quả và tính bền vững của các hoạt động kinh tế, có thể hạch toán toàn diện và đầy đủ để phát triển bền vững đất nước; Đổi mới cơ chế, chính sách quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường và đẩy mạnh cải cách hành chính là các nhiệm vụ trọng tâm để đẩy mạnh kinh tế hóa ngành TN&MT; lấy con người là trung tâm. Đây là kim chỉ nam quan trọng để chúng tôi mạnh dạn thực hiện những đổi mới từ chính sách đến tổ chức thực hiện.
Đưa tư duy hiệu quả và trách nhiệm vào quản lý tài nguyên
Ông có thể chia sẻ thời điểm đó Bộ đã “kinh tế ngành” ra sao trong từng lĩnh vực?
Nếu nói về nơi khởi đầu rõ ràng nhất của tư tưởng “kinh tế hóa ngành TN&MT” thì đó chính là đất đai. Thời kỳ đầu, nhiều địa phương vẫn áp dụng khung giá đất và bảng giá đất cố định, chưa phản ánh đúng giá trị thị trường. Công tác đấu giá quyền sử dụng đất khi đó mới ở giai đoạn thử nghiệm, do chưa có sự chuẩn bị đầy đủ về quỹ đất sạch, hạ tầng kỹ thuật và cơ chế tài chính. Việc khai thác giá trị đất đai thông qua đấu giá mới chỉ được thực hiện thí điểm tại một số địa bàn, chủ yếu mang tính thăm dò, chưa trở thành công cụ kinh tế chủ lực.
Bộ trưởng Tài nguyên và Môi trường Phạm Khôi Nguyên trả lời câu hỏi của Đại biểu quốc hội về vấn đề khai thác bauxite ngày 22/11/2010. Ảnh: Chinhphu.vn.
Phát huy và kế thừa những thành tựu trong giai đoạn trước về đấu giá đất, lãnh đạo Bộ đã chỉ đạo Tổng cục Quản lý đất đai soạn thảo, trình Chính phủ ban hành Nghị định 69/2009/NĐ-CP quy định bổ sung về quy hoạch sử dụng đất, giá đất, thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư.
Nghị định được coi là chính sách, giải pháp khá toàn diện nhằm tháo gỡ căn bản những vướng mắc trong công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất, đáp ứng mong mỏi của người dân.
Điểm nổi bật nhất của Nghị định là quy định thống nhất quản lý đất đai thông qua một hệ thống hồ sơ, sổ sách chung, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tiếp cận, thực hiện các thủ tục đất đai một cách minh bạch, đơn giản hơn.
Chủ trương “kinh tế hóa” lĩnh vực môi trường đã được cụ thể hóa thông qua các công cụ kinh tế trong Luật Bảo vệ môi trường và Luật Đa dạng sinh học. Ảnh: Duy Khang.
Sau đất đai, lĩnh vực khoáng sản là bước đi đột phá thứ hai. Khi đó, Bộ chỉ đạo xây dựng Luật Khoáng sản sửa đổi, trong đó lần đầu tiên đưa cơ chế đấu giá quyền khai thác và thu tiền cấp quyền khai thác khoáng sản.
Để làm được điều đó, trước hết phải đẩy mạnh công tác điều tra, đánh giá trữ lượng, xác định rõ giá trị tài nguyên, vì chỉ khi “biết mình có gì” thì mới có thể đấu giá minh bạch, công bằng. Chính sách thu tiền cấp quyền khai thác khoáng sản là một bước tiến quan trọng, từ khi chính sách này được triển khai, tính đến hết tháng 7/2025, ngân sách nhà nước đã thu về gần 64 nghìn tỷ đồng từ tiền cấp quyền khai thác - một kết quả khẳng định hiệu quả của tư duy “kinh tế hóa”.
Bộ Tài nguyên và Môi trường đã tổ chức đấu giá thành công 14 khu vực khoáng sản quan trọng. Cách làm này chấm dứt cơ chế “xin - cho”, chọn lọc được những doanh nghiệp đủ năng lực, có cam kết chế biến sâu và đầu tư công nghệ hiện đại, thân thiện với môi trường; đồng thời bổ sung nguồn thu ngân sách.
Chủ trương “kinh tế hóa” lĩnh vực môi trường đã được cụ thể hóa thông qua các công cụ kinh tế trong Luật Bảo vệ môi trường và Luật Đa dạng sinh học. Theo đó, doanh nghiệp phải thực hiện nghĩa vụ tài chính đối với hoạt động phát sinh rác thải, nước thải, khí thải và tuân thủ các cơ chế thuế, phí môi trường, nhãn sinh thái.
Việc áp dụng các công cụ này không chỉ nâng cao trách nhiệm của doanh nghiệp trong bảo vệ môi trường mà còn tạo nguồn lực tài chính cho Nhà nước, phục vụ tái đầu tư cho các hoạt động môi trường, từng bước hình thành nền kinh tế tuần hoàn và phát triển bền vững.
Chủ trương “kinh tế hóa” cũng được khởi động ở lĩnh vực khí tượng thủy văn (KTTV). Mỗi thông số về mưa, gió, nhiệt độ hay dòng chảy đều là thành quả của mạng lưới quan trắc trải dài, là công sức của hàng nghìn cán bộ ngày đêm trực canh, đo đạc. Tuy nhiên, trước đây, việc cung cấp dữ liệu chỉ thu theo mức “tiền sao chép”, không tương xứng với giá trị thực tế.
Trên thực tế, nhu cầu sử dụng dữ liệu KTTV từ các thành phần kinh tế tư nhân, nhất là trong các lĩnh vực như thủy sản, năng lượng, nông nghiệp, hàng hải… gia tăng mạnh mẽ. Do đó, việc thu phí khai thác dữ liệu KTTV như một sản phẩm đặc thù là yêu cầu tất yếu, vừa tạo nguồn thu để tái đầu tư cho ngành.
Thậm chí, trong lĩnh vực nặng về kỹ thuật như đo đạc bản đồ, chúng tôi cũng định hướng đưa vào luật một chương riêng về kinh tế. Bởi bản đồ không chỉ là sản phẩm kỹ thuật thuần túy, mà là nguồn dữ liệu đầu vào quan trọng cho quy hoạch xây dựng, giao thông, nông nghiệp, quốc phòng - an ninh. Khi chuyển đổi sang nền tảng số, dữ liệu bản đồ còn trở thành “tài nguyên số”, đóng vai trò then chốt trong quy hoạch và phát triển quốc gia.
“Kinh tế hóa” không phải là thương mại hóa, mà là đưa tư duy hiệu quả và trách nhiệm vào quản lý tài nguyên. Khi chúng ta định giá được tài nguyên, quản trị được dòng tiền và tái đầu tư cho ngành, thì tài nguyên không còn là “của để dành”, mà trở thành vốn tự nhiên thúc đẩy phát triển đất nước.
Lấy hiệu quả và trách nhiệm làm thước đo
Thưa ông, từ chủ trương, Nghị quyết đến hiện thực hóa, Bộ TN&MT khi đó đã triển khai như thế nào?
Để “kinh tế hóa” thực sự đi vào đời sống, trước hết phải bắt đầu từ thể chế pháp luật. Khi đó Bộ TN&MT đưa hàng loạt chính sách mang tính “đòn bẩy”, như đấu giá quyền sử dụng đất, thu tiền thuê đất, khai thác khoáng sản có cấp quyền, thu phí môi trường, phí khai thác tài nguyên nước... Tất cả đều hướng đến một triết lý chung: tài nguyên phải được sử dụng hiệu quả, mang lại giá trị cho quốc gia và thế hệ tương lai, chứ không chỉ là con số trên bản đồ hay báo cáo.
Bước thứ hai là xây dựng đội ngũ cán bộ. Thời điểm đó, trong Bộ, cán bộ hiểu biết sâu về kinh tế còn rất ít, đa phần xuất thân từ các chuyên ngành kỹ thuật. Ban cán sự Đảng chủ trương mạnh dạn tìm kiếm và thu hút người có tư duy kinh tế, am hiểu thị trường - những “ong chúa” có khả năng dẫn dắt, kết nối và tạo sức lan tỏa trong toàn ngành.
Cùng với việc “đưa người giỏi về kinh tế vào bộ máy”, chúng tôi đặt trọng tâm vào đào tạo nguồn nhân lực lâu dài cho ngành. Bộ quyết định nâng cấp hai trường cao đẳng thành hai trường Đại học TN&MT tại Hà Nội và TP HCM, mở thêm các ngành về kinh tế đất đai, kinh tế tài nguyên, kinh tế môi trường. Đồng thời mở rộng thỏa thuận hợp tác với Đại học Kinh tế Quốc dân để mở khoa Kinh tế Môi trường đầu tiên ở Việt Nam; liên kết với Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Mỏ - Địa chất và nhiều trường đại học khác để xây dựng chương trình đào tạo cán bộ cho các lĩnh vực TN&MT.
Bước thứ ba là tổ chức thực hiện và lan tỏa chủ trương đến toàn hệ thống địa phương, thông qua việc tổ chức lớp bồi dưỡng, cấp chứng chỉ cho cán bộ Sở, vừa cập nhật pháp luật, vừa huấn luyện kỹ năng quản lý, đấu giá, định giá đất, khoáng sản, tài nguyên nước;… Nhờ đó, năng lực quản lý của hệ thống sở, phòng được nâng lên, hình thành đội ngũ cán bộ công chức tinh thông, chuyên nghiệp, đáp ứng yêu cầu quản lý giai đoạn mới.
Tất cả các bước đều được tiến hành đồng bộ. Mục tiêu không chỉ là “kinh tế hóa” các lĩnh vực tài nguyên, mà còn là thay đổi tư duy quản lý, đưa ngành từ chỗ “quản lý bao cấp” sang “quản trị phát triển”, lấy hiệu quả và trách nhiệm làm thước đo.
Lấy TN&MT làm nền tảng và nông nghiệp làm động lực
Sau khi Bộ TN&MT và Bộ NN&PTNT hợp nhất thành Bộ Nông nghiệp và Môi trường, ông có nghĩ rằng đây chính là thời điểm để xây dựng Chiến lược quốc gia về kinh tế tài nguyên - môi trường - nông nghiệp xanh, lấy TN&MT làm nền tảng và nông nghiệp làm động lực?
Tôi cho rằng việc hợp nhất này là một bước đi đúng đắn và tất yếu, phù hợp với xu thế phát triển mới của đất nước. Đây là một thời khắc lịch sử và là cơ hội lớn để ngành Nông nghiệp và Môi trường cùng hướng tới một tầm nhìn phát triển bền vững - nơi kinh tế, tài nguyên và con người được đặt trong cùng một chỉnh thể.
Thực ra, nông nghiệp vốn là ngành kinh tế hóa sớm nhất trong các lĩnh vực quản lý nhà nước. Từ cây lúa, con cá, quả xoài đến hạt cà phê.... tất cả đều mang giá trị thị trường, tạo ra thu nhập trực tiếp cho người dân. Từ lâu, ngành nông nghiệp đã là trụ đỡ của nền kinh tế, góp phần quan trọng giữ ổn định xã hội và bảo đảm an ninh lương thực quốc gia. Nhưng cái cần bổ sung là tư duy kinh tế TN-MT gắn với nông nghiệp, để không chỉ sản xuất ra sản phẩm, mà còn biết định giá, điều tiết, bảo tồn và tái đầu tư cho TN-MT, nơi sản sinh ra của cải đó.
Xây dựng Chiến lược quốc gia về kinh tế tài nguyên - môi trường - nông nghiệp xanh, lấy "tài nguyên là nền tảng, môi trường là động lực, nông nghiệp là trụ đỡ".
Cụ thể, đất đai là điểm giao thoa lớn nhất. Khi 2 Bộ hợp nhất, việc quy hoạch sử dụng đất sẽ được nhìn nhận toàn diện hơn, từ đất sản xuất nông nghiệp, đất công nghiệp, đất đô thị đến đất rừng... Việc duy trì đất lúa sẽ được xem xét toàn diện cả vấn đề an ninh lương thực và nâng hiệu suất của đất thông qua chuyển đổi mục đích hiệu quả hơn.
Tài nguyên nước là lĩnh vực liên quan trực tiếp đến cả nông nghiệp, năng lượng và đời sống dân sinh. Nước cần được định giá và phân bổ hiệu quả, công bằng. Việc thống nhất quản lý nước trong Bộ Nông nghiệp và Môi trường sẽ giúp điều tiết tốt hơn giữa các mục tiêu sử dụng, sản xuất, sinh hoạt và bảo vệ hệ sinh thái.
Môi trường là điều kiện tiên quyết để nông nghiệp Việt Nam có thể xuất khẩu bền vững. Sản phẩm nông nghiệp ngày nay không chỉ cần “ngon và nhiều”, mà phải đạt tiêu chuẩn môi trường: từ đất sạch, nước sạch, không khí sạch đến chuỗi sản xuất giảm phát thải. Kiểm soát tốt, nông sản mới đủ tiêu chuẩn vươn xa.
Tôi ủng hộ quan điểm xây dựng Chiến lược quốc gia về kinh tế tài nguyên - môi trường - nông nghiệp xanh, lấy "tài nguyên là nền tảng, môi trường là động lực, nông nghiệp là trụ đỡ". Đây không chỉ là câu chuyện của riêng ngành nông nghiệp hay tài nguyên, mà là chiến lược phát triển bền vững của quốc gia trong kỷ nguyên xanh - nơi mỗi tấc đất, giọt nước, không khí đều phải mang giá trị kinh tế gắn với trách nhiệm sinh thái.
Chúng ta đã từng kinh tế hóa tài nguyên, giờ là lúc kinh tế hóa cả hệ sinh thái, để phát triển nông nghiệp không chỉ là làm ra lương thực, mà còn là bảo tồn tài nguyên, giảm phát thải, tạo giá trị xanh cho tương lai.
Nhân kỷ niệm 80 năm thành lập Bộ Canh nông và bước đường phát triển mới của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, ông có gửi gắm gì cho ngành?
80 năm trước, Bộ Canh Nông ra đời từ căn cứ Định Hóa “thủ đô gió ngàn”. Cũng 80 năm trước, ngành quản lý đất đai, khí tượng, thủy văn, địa chất khoáng sản được hình hành. Hai lĩnh vực này vốn gắn bó mật thiết và việc hợp nhất sẽ tạo nên sức mạnh tổng hợp, vừa có tư duy quản lý hiện đại, vừa có thực tiễn sản xuất, tránh trùng chéo, thống nhất một đầu mối điều hành, một mục tiêu phát triển.
Điều quan trọng nhất, theo tôi, là đoàn kết và hiểu biết lẫn nhau để cùng hành động. Với phương châm “Nông nghiệp là trụ đỡ của nền kinh tế, môi trường là trụ cột phát triển bền vững quốc gia”, hai lĩnh vực này không chỉ là ngành kinh tế - kĩ thuật mà là hai trụ cột chiến lược đảm bảo cho đất nước phát triển hài hòa, bền vững, hướng tới tương lai xanh, thịnh vượng.
“Bộ TN&MT thực hiện giao lưu trực tuyến lần đầu tiên vào năm 2006 và các năm tiếp theo liên tục duy trì một năm 1-2 lần. Ở thời điểm đó, khái niệm “chuyển đổi số” còn chưa xuất hiện thì những buổi giao lưu ấy thực sự tạo ra một cuộc “cách mạng nhỏ” trong hành chính công.
Mỗi lần giao lưu chúng tôi nhận được cả ngàn câu hỏi, từ những thắc mắc về thực thi chính sách của cán bộ trong ngành đến những vấn đề rất nhỏ như: khiếu nại của một hộ dân về sổ đỏ, hay ô nhiễm ở một con mương cụ thể, đều được đưa lên bàn và xử lý tới nơi. Nhờ vậy, người dân tin hơn, doanh nghiệp cũng chủ động đối thoại hơn.
Trong bối cảnh Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh yêu cầu cơ quan nhà nước phải gần dân, sát dân thì mô hình “đối thoại trực tuyến” hoàn toàn có thể được kế thừa, phát triển lên một cấp độ mới vừa là “chuyển đổi số”, vừa là “chuyển đổi tư duy”. Công nghệ giờ đã khác, nhưng nguyên tắc vẫn vậy: mọi chính sách phải xuất phát từ thực tiễn của người dân, mọi vướng mắc phải được xử lý công khai, minh bạch, có trách nhiệm”.
Nguyên Bộ trưởng Bộ TN&MT Phạm Khôi Nguyên
Nguồn: https://nongnghiepmoitruong.vn/noi-kinh-te--tai-nguyen-va-con-nguoi-trong-mot-chinh-the-d781322.html






Bình luận (0)