Hơn mười năm qua, Sơn La đã trở thành điểm sáng của cả nước trong chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp gắn với phát triển bền vững vùng trung du và miền núi phía Bắc. Từ những triền đồi khô cằn, Sơn La đã “phủ xanh đất dốc” bằng hàng trăm nghìn héc-ta cây ăn quả, biến vùng đất khắc nghiệt thành “vựa trái cây lớn nhất miền Bắc”. Hành trình ấy không chỉ phản ánh tầm nhìn chiến lược trong phát triển nông nghiệp hàng hóa mà còn là minh chứng cho năng lực tổ chức, sáng tạo và khát vọng vươn lên của Nhân dân các dân tộc Sơn La. 
Nhiều năm trước ở Sơn La là những quả đồi trọc, canh tác chủ yếu là ngô, sắn
Những con số biết nói
Năm 2025: Tổng diện tích cây ăn quả và cây Sơn tra năm 2025 ước đạt 85.050 ha, trong đó giai đoạn 2016 - 2025 diện tích chuyển đổi, trồng mới cây ăn quả đạt 61.448 ha; sản lượng quả năm 2025 ước đạt 510.000 tấn; so với năm 2016 diện tích tăng 219%, sản lượng tăng 332%; đạt 81,14% về diện tích, 85,5% về sản lượng so với mục tiêu năm 2025. Hình thành và phát triển được một số vùng cây ăn quả tập trung, phù hợp với từng tiểu vùng khí hậu, có chất lượng, hiệu quả cao trên địa bàn các huyện Mai Sơn (dâu tây, na,..), Sông Mã (nhãn Ánh vàng 205,...) Yên Châu (xoài tròn, mận,…) Mường La (xoài, táo,..), Mộc Châu (hồng giòn, lê, mận,…), Vân Hồ (đào), Phù Yên (cam, quýt),… trở thành trung tâm sản xuất, chế biến rau, quả lớn nhất vùng Tây Bắc.

Hiệu quả kinh tế cao từ cây ăn quả
Giá trị sản xuất cây ăn quả cho thu nhập ổn định từ trung bình đạt 150-300 triệu đồng/ha/năm, một số mô hình tiêu biểu đạt 400-500 triệu đồng/ha/năm, so với năm 2016 giá trị tăng gấp 4-10 lần (110 - 430 triệu đồng/ha).
Đến nay, tỉnh Sơn La đang duy trì 218 mã số vùng trồng, có 31 sản phẩm nông sản mang địa danh của tỉnh được Cục Sở hữu trí tuệ (Bộ Khoa học và Công nghệ) cấp văn bằng bảo hộ, 201 chuỗi sản xuất, chế biến, kinh doanh quả an toàn (năm 2015 có 02 chuỗi) với tổng diện tích 4.502 ha, sản lượng cung ứng ra thị trường đạt khoảng 54.207 tấn/năm.
Các sản phẩm quả sản xuất ra được bán trực tiếp cho doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ chức và cá nhân tiêu thụ trong tỉnh; một số sản phẩm quả tươi (xoài, nhãn, mận, dâu tây…) của tỉnh Sơn La đã vào được chuỗi phân phối của các siêu thị lớn như: Vinmart, Big C, Lotte, Hapro… với số lượng lớn; ngoài ra quả còn được tiêu thụ tại các tỉnh như: Hà Nội, Lạng Sơn, Quảng Ninh, Hải Phòng, …
Hàng trăm hợp tác xã và tổ hợp tác được thành lập, tham gia vào chuỗi sản xuất, tiêu thụ. Từ 2016 đến nay tỉnh đã hình thành 335 doanh nghiệp, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã trồng cây ăn quả với diện tích 9.389,12 ha. Các doanh nghiệp, hợp tác xã thực hiện tốt vai trò hướng dẫn kỹ thuật, kết nối, hỗ trợ trong quá trình sản xuất, tiêu thụ các sản phẩm quả cho thành viên hợp tác xã, nâng cao hiệu quả sản xuất.
Nhiều sản phẩm được cấp mã vùng trồng, truy xuất nguồn gốc và xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, EU. Giai đoạn từ năm 2017 - 2024 tỉnh đã tập trung chỉ đạo xuất khẩu quả tươi và các sản phẩm chế biến được 158.395 tấn quả, giá trị 160.809 nghìn USD, thị trường xuất khẩu nông sản của tỉnh là 15 thị trường, gồm: Trung Quốc, Úc, Hàn Quốc, Nhật Bản, EU, Mỹ, Đài Loan, UAE...; năm 2025 ước xuất khẩu được 31.560 tấn (quả tươi và quả tươi chế biến) giá trị 35.896 nghìn USD.
Những con số ấy không chỉ thể hiện sự tăng trưởng về lượng, mà còn là sự chuyển biến về chất; từ sản xuất tự phát sang sản xuất hàng hóa, từ nông dân riêng lẻ sang liên kết chuỗi, từ “tự cung tự cấp” sang “làm nông nghiệp hàng hóa, hội nhập thị trường”.
Lợi ích kinh tế và xã hội rõ rệt
Sau hơn 10 năm triển khai, chương trình đã khai thác hiệu quả tiềm năng, thế mạnh của địa phương, hình thành nhiều mô hình làm giàu từ cây ăn quả và chế biến sản phẩm hoa quả, góp phần giảm nghèo, nâng cao tiềm lực kinh tế, khả năng đầu tư của người dân. Sản xuất nông nghiệp khởi sắc đã trực tiếp cải thiện đời sống, thu nhập của nông dân, góp phần thực hiện xây dựng nông thôn mới của tỉnh, khẳng định chủ trương phát triển cây ăn quả là hướng đi đúng đắn, hiệu quả.
Phát triển vùng cây ăn quả tập trung gắn với các nhà máy chế biến lớn và cơ sở chế biến quy mô nhỏ, vừa đã giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người dân tại các huyện, thành phố. Góp phần ổn định đời sống, giảm nghèo bền vững, nhất là ở các vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Việc phát triển hợp tác xã đã góp phần hoàn thành tiêu chí số 13 về tổ chức sản xuất trong xây dựng nông thôn mới, tạo việc làm ổn định cho gần 5.000 lao động.
Không chỉ tạo sinh kế bền vững, chương trình phủ xanh đất dốc còn góp phần quan trọng vào bảo vệ môi trường sinh thái, giữ nước cho hồ thủy điện Sơn La, hạn chế xói mòn, sạt lở, rửa trôi đất, bảo vệ tài nguyên đất, nước, tăng độ che phủ rừng.
Những bài toán trong kỷ nguyên mới
Thành tựu to lớn nhưng vẫn còn nhiều thách thức cần lời giải trong giai đoạn phát triển mới:
1. Bài toán thị trường - “được mùa, mất giá”
Giá nông sản vẫn phụ thuộc vào thương lái, thời điểm thu hoạch tập trung khiến sản phẩm thường bị “rớt giá” dù sản lượng cao. Thiếu kho lạnh, thiếu nhà máy chế biến khiến nông sản dễ tồn đọng.
2. Bài toán hạ tầng và logistics
Địa hình đồi núi, đường vận chuyển còn hạn chế làm tăng chi phí, ảnh hưởng chất lượng hàng hóa. Hệ thống kho bảo quản, trung tâm sơ chế chưa đủ để phục vụ quy mô hàng trăm nghìn tấn mỗi năm.
3. Bài toán kỹ thuật trên đất dốc
Canh tác trên đất dốc dễ bị xói mòn, thoái hóa đất, cần áp dụng các biện pháp như làm bậc thang, trồng xen, che phủ sinh học, tưới tiết kiệm. Bên cạnh đó, biến đổi khí hậu khiến nguy cơ dịch hại, mưa cực đoan ngày càng cao.
4. Bài toán tổ chức sản xuất và liên kết chuỗi
Mô hình hợp tác xã vẫn manh mún, thiếu doanh nghiệp dẫn dắt. Nông dân khó tiếp cận tín dụng, thiếu thông tin thị trường và kỹ năng quản lý chuỗi giá trị.
5. Bài toán khi thực hiện mô hình chính quyền địa phương 2 cấp
Việc chuyển sang mô hình 2 cấp đòi hỏi phân cấp rõ ràng trong quy hoạch, cấp phép, quản lý mã số vùng trồng, giám sát chất lượng sản phẩm.
Cán bộ cấp huyện hiện là “trung tâm điều phối” toàn bộ hoạt động phát triển cây ăn quả. Mô hình 2 cấp khiến khối lượng công việc tăng lên, trong khi đội ngũ cán bộ quản lý nông nghiệp, kinh tế, môi trường còn mỏng, chưa đồng đều.
Trong phát triển cây ăn quả, nhu cầu đầu tư hạ tầng thủy lợi, đường giao thông, kho lạnh, chế biến sâu rất lớn. Tuy nhiên, khi chuyển sang mô hình 02 cấp, quyền phân bổ ngân sách tập trung ở cấp huyện, gây khó cho việc huy động và điều phối nguồn lực theo vùng trồng liên huyện hoặc liên xã.
Phát triển cây ăn quả trong bối cảnh mới không thể tách rời chuyển đổi số, quản lý dữ liệu vùng trồng, truy xuất nguồn gốc điện tử. Mô hình 02 cấp đòi hỏi hệ thống quản lý thông tin từ tỉnh đến huyện, hợp tác xã, doanh nghiệp phải đồng bộ, tránh trùng lặp và thất thoát dữ liệu.
Hướng đi cho thập kỷ tới
Để Sơn La tiếp tục phát triển bền vững cây ăn quả trên đất dốc, cần một chiến lược tổng thể, bao gồm:
Quy hoạch vùng trồng theo tiểu vùng sinh thái; ưu tiên cây phù hợp địa hình và khí hậu từng địa phương.
Ứng dụng nông nghiệp số: quản lý mã vùng trồng, nhật ký điện tử, truy xuất QR, bán hàng trên sàn thương mại điện tử.
Đầu tư hạ tầng chế biến và kho lạnh tại các vùng trọng điểm.
Phát triển hợp tác xã kiểu mới liên kết chặt chẽ với doanh nghiệp và thị trường tiêu thụ.
Chuyển giao kỹ thuật canh tác bền vững trên đất dốc: tưới nhỏ giọt, che phủ hữu cơ, quản lý đất, nước, phân bón hợp lý.
Đào tạo thế hệ nông dân số, biết dùng công nghệ, biết quản lý xuất theo chuẩn quốc tế
Sau 10 năm, Sơn La đã khẳng định vị thế là “thủ phủ cây ăn quả vùng Tây Bắc”, một minh chứng sinh động cho sức mạnh của ý chí con người miền núi. Thành công này không chỉ tạo nên một diện mạo nông nghiệp mới mà còn mở ra cơ hội phát triển kinh tế xanh, sinh thái, thích ứng với biến đổi khí hậu. Bước sang kỷ nguyên chuyển đổi số và hội nhập quốc tế, bài toán của Sơn La không chỉ là tăng diện tích hay sản lượng, mà là nâng tầm giá trị, thương hiệu, bền vững cho từng quả ngọt trên đất dốc quê hương./.
Đinh Minh Khanh - Trường Chính trị tỉnh Sơn La
Nguồn: https://sonla.dcs.vn/tin-tuc-su-kien/noi-dung/son-la-10-nam-phu-xanh-dat-doc-bang-cay-an-qua-thanh-tuu-va-bai-toan-trong-ky-nguyen-moi-5659.html






Bình luận (0)