Điểm nổi bật của Nguyễn Hòa Văn trong “Tư duy đột phá” và “Vì sao yêu” là sự kết hợp giữa tư duy báo chí và cảm hứng thi ca. Ông viết thơ như viết những bản xã luận, nhưng lại thấm đẫm chất nhân văn, sự chiêm nghiệm về thân phận con người, về tình yêu, về trách nhiệm công dân. Ông viết chính luận, đầy chất sắt nhưng lại mang hơi thở cuộc sống, hàm chứa tinh thần trách nhiệm công dân.
Hai tác phẩm của ông mang tính phản biện xã hội mạnh mẽ, không ngại phơi bày những nghịch lý, những mảng tối của đời sống, đồng thời khẳng định niềm tin vào Đảng, vào nhân dân. Chính sự song hành giữa “người lính - người báo - người thơ” đã tạo nên phong cách độc đáo, khiến Nguyễn Hòa Văn trở thành một cây viết vừa gần gũi vừa khác biệt trong nền báo chí, văn học.
“Tư duy đột phá” - bản lĩnh báo chí
“Tư duy đột phá” là tập hợp các bài viết của nhà báo Nguyễn Hòa Văn đã đăng trên nhiều báo, tạp chí về hai chặng thời gian cách nhau 4 năm - từ 2016 đến 2020 và từ 2024 đến 2025. Sách có 2 phần, phần một - 139 trang, là những bài viết về cuộc chiến chống “giặc nội xâm” dưới sự lãnh đạo của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng - nhà lãnh đạo được nhiều người dân gọi bằng cái tên thân mật là “Người đốt lò vĩ đại”.
Phần hai - 94 trang, là những bài viết về những nỗ lực và kết quả ban đầu rất quan trọng của Đảng ta dưới sự lãnh đạo của Tổng Bí thư Tô Lâm với quyết tâm vừa “xây” vừa “chống”, đưa dân tộc bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình tới sự giàu mạnh, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc.
Nhà Xuất bản Hội Nhà văn đã tài tình khi chia thành 10 nhóm chủ đề khác nhau. Phần 1 gồm: “Chống được “chạy” sẽ thành công”; “Binh pháp” chống “giặc nội xâm”; “Hóa giải những nghịch lý, ngang trái trên con đường đã chọn”; “Thời cuộc và lòng yêu nước”; “Báo chí với cuộc chiến phòng chống tham nhũng, lãng phí”; “Lợi ích nhóm và vấn đề bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng”. Phần 2 với 4 chủ đề: “Chống lãng phí, gọn bộ máy “nhẹ để bay””; “Rào cản trong tiến hành các cuộc cách mạng”; “Đổi mới tư duy lập pháp”; “Báo chí và doanh nghiệp”.
Theo Tiến sĩ Nguyễn Thị Thanh Tâm (Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh), chỉ đọc nhóm đề tài trong “Tư duy đột phá” thôi, chúng ta đã phần nào hình dung tác giả xuất thân là sĩ quan quân đội. Đọc thêm, chúng ta sẽ thấy đẳng cấp của Đại tá Nguyễn Hòa Văn, một cây viết chính luận từng nhận được nhiều giải thưởng báo chí quốc gia; một người am hiểu luật, hiểu sâu về nền tảng tư tưởng của Đảng, về các quan hệ kinh tế của đất nước.
Thơ tình nhưng giàu tính phản biện
Tập thơ “Vì sao yêu” của Nguyễn Hòa Văn gồm 40 bài, là một hành trình suy tư về tình yêu, nhân sinh và trách nhiệm công dân của tác giả sinh năm 1955. Không chỉ dừng lại ở cảm xúc lãng mạn, ông đặt ra những câu hỏi phản biện: Yêu vì tiền, vì quyền, vì sắc, vì nghĩa… để rồi khẳng định tình yêu đích thực là khi “không biết vì sao yêu”.
Bằng giọng thơ vừa trữ tình vừa chính luận, ông soi chiếu tình yêu trong mối quan hệ với đạo lý sống, với sự trung thực và nhân văn. Tác phẩm trở thành một thông điệp sâu sắc về tình yêu, niềm tin và giá trị con người.
Trong tập thơ “Vì sao yêu” (trang 8-10), Nguyễn Hòa Văn đặt ra hàng loạt câu hỏi về bản chất của tình yêu: Yêu vì tiền, vì quyền, vì sắc, vì nghĩa… và rồi kết luận: “Khi ta yêu/Không biết vì sao yêu/Mới chính là tình yêu đích thực” (“Vì sao yêu”, trang 9).
Nhà thơ Phạm Mầu chia sẻ: “Ở đây, tác giả đã vận dụng lối tư duy phản biện của một nhà báo để soi chiếu vào tình yêu - một lĩnh vực tưởng chừng chỉ thuộc về cảm xúc. Ông không ngần ngại phơi bày những biến tướng của tình yêu khi bị chi phối bởi vật chất, quyền lực, sắc đẹp. Chính sự thẳng thắn này tạo nên tính chiến đấu trong thơ: Đấu tranh chống lại sự giả dối, chống lại những biến tướng của tình cảm. Đó chính là điểm khác biệt rõ nét của Nguyễn Hòa Văn”. Đặc sắc của “Vì sao yêu” còn nằm ở sự hòa quyện giữa chất triết lý và chất trữ tình. Những câu thơ như: “Người ta đã yêu như hạt phù sa/Khi bên lở, khi bên bồi…” (“Vì sao yêu”, trang 8) vừa gợi hình ảnh dân dã, vừa chứa đựng triết lý về sự biến thiên của tình yêu và đời sống.
Tính phản biện ở đây không chỉ hướng ra xã hội mà còn hướng vào chính bản thân con người. Nguyễn Hòa Văn buộc người đọc phải tự vấn: Tình yêu của mình có thật sự trong sáng, vô điều kiện, hay đang bị chi phối bởi những lợi ích cá nhân?
Hai tác phẩm đều cho thấy sự hòa nhập giữa nghề báo và thơ ca của một nhà báo lão luyện từ thực tiễn nghề nghiệp đến phong cách sáng tác. Nguyễn Hòa Văn viết thơ như viết một bài xã luận: Ngắn gọn, súc tích, giàu hình ảnh, nhưng luôn hướng tới sự thật. Ông viết chính luận lại giàu chất thi ca, hướng tới chân, thiện, mỹ hơn là phê phán, đả phá, dù ông từng khẳng định: “Sự thật đanh thép người ơi/Sao cứ nói hoài những lời không thật” (“Sự thật đanh thép”, trang 44).
Đây là tuyên ngôn nghề nghiệp, đồng thời là tuyên ngôn nghệ thuật của một ông đồ Nghệ, vùng Kỳ Anh (cũ). Thơ của Nguyễn Hòa Văn không chấp nhận sự giả dối, không chấp nhận sự mờ nhạt. Nó phải là sự thật và sự thật ấy phải được nói ra bằng ngôn ngữ đanh thép. Điểm đặc sắc nữa là sự kết hợp giữa chất lính và chất báo. 43 năm quân ngũ tạo cho ông bản lĩnh kiên định, 15 năm làm báo tạo cho ông khả năng phản biện và truyền thống gia đình tạo cho thơ ông sự tinh tế, nhân văn. Chính sự kết hợp này làm cho thơ, văn của tác giả vừa mạnh mẽ vừa giàu cảm xúc, vừa chiến đấu vừa nhân ái.
Nguồn: https://hanoimoi.vn/tinh-phan-bien-va-thi-ca-trong-tu-duy-dot-pha-va-vi-sao-yeu-725935.html










Bình luận (0)