Thiếu hụt nguồn nhân lực được đào tạo bài bản
Nhiều mùa tuyển sinh gần đây, một số ngành đào tạo văn hóa nghệ thuật, nhất là nghệ thuật truyền thống, mang tính đặc thù như tuồng, cải lương... rơi vào tình trạng thiếu hụt sinh viên. Chia sẻ với truyền thông, TS. NSND Triệu Trung Kiên - Giám đốc Nhà hát Cải lương Việt Nam cho biết, tại các trường đào tạo tài năng nghệ thuật như Trường Đại học Sân khấu Điện ảnh Hà Nội, Đại học Sân khấu Điện ảnh TP HCM nhiều năm nay không có thí sinh thi tuyển vào các lớp diễn viên, nhạc công tuồng và cải lương.
Theo số liệu thống kê, tính đến năm 2021 tổng số nhân lực ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch trong cả nước là 899.950 người, trong đó lĩnh vực văn hóa nghệ thuật: 19.751 người; lĩnh vực thể dục, thể thao: 10.199 người; lĩnh vực du lịch: 870.000 người, trong đó 18.907 người phục vụ ở cả 3 lĩnh vực văn hóa nghệ thuật, thể dục, thể thao và du lịch.
Hiện nay công nghiệp văn hóa bao gồm 10 lĩnh vực theo Quyết định số 2486/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, bao gồm: điện ảnh, nghệ thuật biểu diễn, mỹ thuật - nhiếp ảnh - triển lãm, quảng cáo, kiến trúc, thời trang, thiết kế, phần mềm trò chơi điện tử, thủ công mỹ nghệ, du lịch văn hóa... Tất cả các lĩnh vực này đều dựa trên sáng tạo, tài năng, tri thức và công nghệ. Vì vậy, nguồn nhân lực chính là yếu tố quyết định sự cạnh tranh của ngành.
Tại Việt Nam, sự phát triển của công nghiệp văn hóa đang diễn ra, nhưng còn chậm so với tiềm năng. Một trong những nguyên nhân là sự thiếu hụt nguồn nhân lực chất lượng cao. Theo thống kê của Cục Du lịch Quốc gia, ngành Du lịch Việt Nam đang thiếu khoảng 30 - 40% lao động có kinh nghiệm so với nhu cầu thực tế. Trước sự phát triển của công nghệ, khoa học, kỹ thuật, nhiều ngành công nghiệp văn hóa mới được “sản sinh” ra như game, thiết kế sáng tạo, quản lý nghệ thuật tiếp tục rơi vào tình trạng thiếu nhân lực trầm trọng.
Đáng chú ý, trong ngành điện ảnh, một trong những lĩnh vực có đóng góp lớn và khả năng lan tỏa mạnh số lượng đạo diễn, biên kịch, kỹ sư kỹ xảo được đào tạo bài bản còn ít. Hàng năm, nhà biên kịch của Việt Nam còn thiếu hụt, không đủ đáp ứng nhu cầu của thị trường với hàng trăm dự án phim, web-drama, quảng cáo và nội dung đa phương tiện. Điều này khiến nhiều nhà sản xuất rơi vào thế bị động, thậm chí phải thuê các biên kịch nước ngoài, khiến chất lượng sản phẩm không đồng đều.
Thực tiễn cho thấy, những quốc gia có ngành công nghiệp văn hóa phát triển đều chú trọng đặc biệt vào đào tạo nhân lực. Hàn Quốc là ví dụ điển hình. Từ cuối thập niên 1990, Hàn Quốc đã đầu tư hàng tỷ USD vào đào tạo nhân lực cho ngành giải trí, nghệ thuật, công nghệ nội dung số. Nhờ đó, họ đã xây dựng được một lực lượng sáng tạo khổng lồ, góp phần đưa âm nhạc, phim ảnh, trò chơi điện tử và thời trang ra toàn thế giới. Năm 2023, giá trị xuất khẩu nội dung văn hóa của Hàn Quốc đạt hàng chục tỷ USD, một phần lớn đến từ đội ngũ nhân lực được đào tạo bài bản, chuyên nghiệp.
Không chỉ thiếu về số lượng, nguồn nhân lực của Việt Nam còn gặp nhiều hạn chế về kỹ năng số, khả năng ứng dụng công nghệ mới như AI trong sáng tạo nội dung, 3D modelling, kỹ xảo phim, game engine… Điều này dẫn tới việc nhiều doanh nghiệp Việt Nam có ý tưởng tốt nhưng không đủ nhân lực để triển khai, hoặc phải thuê chuyên gia nước ngoài với chi phí cao.
Đơn cử như như thị trường phim hoạt hình tại Việt Nam tương đối “ảm đạm” so với bạn bè quốc tế. Mặc dù, phim hoạt hình đang mang lợi nhuận khổng lồ cho ngành điện ảnh, nhưng đòi hỏi nguồn nhân lực có trình độ cao về cả công nghệ, cách kể chuyện và khiếu thẩm mỹ. Đây là một vấn đề mà cơ sở giáo dục ở các trường nghệ thuật tại Việt Nam vẫn chưa đáp ứng đầy đủ.
Một thách thức khác là tư duy quản lý còn hạn chế. Trong nhiều lĩnh vực như du lịch văn hóa, quảng bá di sản, thời trang, Việt Nam có nhiều sản phẩm độc đáo nhưng thiếu chiến lược phát triển thương hiệu, dẫn đến việc giá trị gia tăng thấp. Ví dụ, các làng nghề truyền thống có thể tạo ra sản phẩm thủ công tinh xảo, nhưng thiếu đội ngũ thiết kế sáng tạo để hiện đại hóa sản phẩm hoặc đội ngũ marketing để đưa sản phẩm ra thị trường quốc tế.
Rõ ràng, để công nghiệp văn hóa bứt phá, nguồn nhân lực chất lượng cao phải đi trước một bước. Đây là nền tảng để tạo ra giá trị gia tăng, tăng sức cạnh tranh và góp phần đưa Việt Nam thành quốc gia mạnh về sáng tạo.
Phát triển nhân lực chất lượng cao phục vụ công nghiệp văn hóa
Quyết định 2486/QĐ TTg phê duyệt Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến 2030, tầm nhìn đến 2045 cho thấy những tiềm năng để phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho ngành công nghiệp văn hóa. Như đặt nhu cầu nhân lực cao làm trọng tâm phát triển Chiến lược chỉ rõ “phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao” là một trong các giải pháp then chốt. Nghĩa là để công nghiệp văn hóa phát triển, cần có đội ngũ có trình độ, kiến thức, kỹ năng phù hợp;
Mở rộng công nghiệp văn hóa, tạo đa dạng cơ hội nghề nghiệp. Lấy ví dụ các ngành như điện ảnh, mỹ thuật, thiết kế sáng tạo, phần mềm game, quảng cáo, truyền thông, du lịch văn hóa đều được liệt vào ngành công nghiệp văn hóa. Điều này đòi hỏi nguồn nhân lực đa dạng, không chỉ nghệ sĩ truyền thống, mà cả chuyên gia kỹ thuật, marketing, quản lý, công nghệ thông tin… thúc đẩy đào tạo đa ngành, đa kỹ năng;
Khuyến khích giáo dục đào tạo gắn với thực tiễn, công nghệ và sáng tạo. Vì sản phẩm công nghiệp văn hóa cần tính sáng tạo, công nghệ, bản quyền và đáp ứng nhu cầu thị trường, nên đào tạo không chỉ dừng ở “học thuật” mà phải kết hợp thực hành, kỹ năng số, sáng tạo phù hợp với yêu cầu thực tiễn. Chiến lược khuyến khích áp dụng sáng tạo, công nghệ, văn hóa và thương mại, nên chương trình đào tạo cần điều chỉnh theo hướng chuyên nghiệp, đa kỹ năng. Tạo môi trường, hệ sinh thái văn hóa, nơi nhân lực được thực hành và phát triển. Việc phát triển các trung tâm sáng tạo, cụm công nghiệp văn hóa, không gian nghệ thuật, trung tâm phát hành, xuất khẩu văn hóa là một phần của chiến lược. Nhờ đó nhân lực được có sân chơi thực tế, cơ hội trải nghiệm sáng tạo, học hỏi cần thiết để hình thành nhân lực chất lượng cao.
Ngoài ra, công nghiệp văn hóa nhấn mạnh yếu tố công nghệ, quyền sở hữu trí tuệ và cạnh tranh quốc tế, nên việc đầu tư vào cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật số, công cụ sáng tạo sẽ là tất yếu làm nền tảng cho đào tạo nhân lực hiện đại, đủ năng lực đáp ứng yêu cầu thời đại.
Mặc dù Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 mở ra cơ hội lớn cho việc phát triển nhân lực chất lượng cao. Tuy nhiên, để hiện thực hóa mục tiêu đó, vẫn còn nhiều thách thức dành cho ngành công nghiệp văn hóa. Như nhu cầu nhân lực chất lượng cao tăng nhanh nhưng nguồn cung chưa đáp ứng, trong khi chương trình đào tạo vẫn nặng lý thuyết và chậm đổi mới theo yêu cầu thực tiễn. Đội ngũ giảng viên am hiểu các lĩnh vực mới như công nghệ sáng tạo, truyền thông số hay quản trị bản quyền còn thiếu. Nhiều cơ sở đào tạo cũng hạn chế về hạ tầng số và thiết bị hiện đại. Bên cạnh đó, ngành văn hóa khó thu hút nhân tài do chính sách đãi ngộ chưa thật sự cạnh tranh.
TS Mai Thị Thùy Hương, Phó Viện trưởng Viện Văn hóa, Nghệ thuật, Thể thao và Du lịch Việt Nam, trong tham luận tại Hội thảo khoa học hướng tới Đại hội XIV của Đảng, đã phân tích sâu sắc những điểm mới trong Dự thảo Văn kiện Đại hội, đặc biệt là việc định hướng phát triển nguồn nhân lực ngành văn hóa trong kỷ nguyên mới. Như đầu tiên, cần đổi mới căn bản công tác đào tạo và bồi dưỡng theo hướng chuyên nghiệp, linh hoạt và gắn với thực tiễn, khắc phục tình trạng nặng lý thuyết nhưng thiếu kỹ năng. Việc xây dựng khung năng lực nghề nghiệp và chuyển trọng tâm từ “học để biết” sang “học để làm, học để sáng tạo” là yêu cầu then chốt.
Thứ hai, phát triển nhân lực số trong lĩnh vực văn hóa trở thành trụ cột của thời đại, với các kỹ năng như tư duy dữ liệu, truyền thông đa phương tiện, quản trị bản quyền số và ứng dụng AI. Cơ sở đào tạo cần được đầu tư hạ tầng số để hình thành thế hệ nghệ sĩ số. Thứ ba, cần có chính sách thu hút và đãi ngộ đặc thù đối với nhân tài văn hóa nhằm tạo động lực sáng tạo.
Cuối cùng, việc xây dựng hệ sinh thái sáng tạo gồm các không gian nghệ thuật, trung tâm sáng tạo, bảo tàng mở hay nhà hát số sẽ tạo môi trường cho nhân lực văn hóa thực hành, kết nối và phát triển bền vững.
Nguồn: https://baophapluat.vn/xay-dung-nguon-nhan-luc-tinh-hoa-cho-cong-nghiep-van-hoa.html










Bình luận (0)