Sáng ngày 22/01/2024, Ủy ban nhân dân huyện Tân Lạc long trọng tổ chức Lễ Đón nhận bằng xếp hạng di tích lịch sử cấp tỉnh di tích chùa Lốc, thị trấn Mãn Đức, huyện Tân Lạc. Tới dự buổi lễ Đại diện Lãnh đạo Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch có đồng chí Bùi Xuân Trường - Phó Giám đốc Sở; Đại diện huyện Tân Lạc có đồng chí Lê Chí Huyên – Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện.
Thừa uỷ quyền, đồng chí Bùi Xuân Trường – Phó Giám đốc Sở VHTTDL
trao bằng di tích lịch sử cấp tỉnh chùa Lốc, thị trấn Mãn Đức, huyện Tân Lạc
Chùa Lốc có từ lâu đời. Các cụ truyền rằng, xưa khu đất có địa thế khá đẹp, cảnh quan thiên nhiên nhiên rộng rãi, thoáng đãng. Xung quanh di tích là khu đất canh tác trồng lúa nương. Ban đầu nhân dân đã lợi dụng phiến đá tự nhiên có diện tích rộng khoảng khoảng 2,5m2 dưới gốc cây đa cổ thụ để làm nơi thờ tự. Khối đá trông tựa hình Rù, trên phiến đá nhân dân chỉ đặt 01 bụt mọc, và 01 bát hương gốm Thổ Hà và một số đồ thờ tự như lọ hoa, chén, đĩa…. Sau đó, để che mưa nắng nơi thờ tự, nhân dân đã dựng nhà với khung cột bằng tre, mái bằng lá cọ, diện tích rộng khoảng 4m2, mặt quay hướng Nam.
Vào khoảng những năm 1957-1958, sau thời gian cải cách ruộng đất, tại di tích không còn hoạt động thờ cúng. Đến năm 1980, bà con nhân dân trong khu đã tiến hành tu sửa lại dựng lại chùa. Ngôi chùa có tường xây bằng gạch, mái đổ xi măng, đắp giả ngói ống; có kích thước cao 2,15m; dài 1,45m; rộng 1,35m. Ban thờ tại đây được tận dụng từ mặt phẳng của khối đá lớn hình Rùa, thiết kế theo kiểu tam cấp và lát gạch màu đỏ. Trên đặt Bụt đá, tượng bà Chúa Nàng Chiều, bát hương gốm Thổ Hà và một số đồ thờ tự khác như ngai thờ, lọ hoa, chân nến… Hai bên tả, hữu là 2 ban thờ nhỏ, có kích thước bằng nhau: rộng 90cm, sâu 94cm, cao 70cm. Mái đổ bê tông theo kiến trúc mái vòm. Ban bên trái thờ Thần tài, bên trong có đặt 01 bát hương, 01 tượng Thần tài và một số đồ thờ tự. Ban bên phải thờ Ngũ Hổ, bên trong ban đặt 01 bát hương và 01 tượng ông Hổ.
Năm 1983, vì diện tích ngôi chùa quá hẹp, để đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng của nhân dân địa phương, nên nhân dân đã đóng góp xây thêm phía sau một ngôi nhà ngang. Ngôi nhà quay hướng Tây, được xây dựng theo kiểu chuôi vồ, với các hạng mục: Nhà Tiền đường Hậu đường.
Chùa Lốc là một ngôi chùa có thiết chế khá thuần nhất mang đặc trưng của tín ngưỡng dân gian bản địa (thờ bụt đá), góp phần gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc. Sự đan xen và hòa đồng phản ánh đời sống tâm linh phong phú, đa dạng, sự khoan dung, độ lượng, nhân ái của người Việt-Mường và tinh thần đoàn kết dân tộc. Cũng như những ngôi chùa, đình, đền khác trên địa bàn tỉnh Hòa Bình, xưa lễ hội truyền thống chùa Lốc diễn ra trong 01 ngày, vào ngày mùng 7 tháng giêng âm lịch (tính theo lịch Mường Bi là ngày 6 cây tháng tư).
Chùa tổ chức Lễ hội Khai hạ hay còn gọi là Lễ xuống đồng” hoặc “Lễ mở cửa rừng” để nhân dân đến dâng hương tỏ lòng biết ơn, tôn kính các vị thần, phật. Theo lệ làng xưa, phải sau lễ Khai hạ, mọi người mới được phép ra ruộng cấy trồng, sản xuất và vào rừng lấy măng, lấy củi, săn bắn...
Do nhiều yếu tố khách quan của lịch sử tự nhiên và xã hội. Từ năm 1957 đến năm 1979 lễ hội không được tổ chức. Đến năm 1980, chùa Lốc được khôi phục lại, nhưng lễ hội Khai hạ diễn ra vào ngày mùng 7 tháng giêng âm lịch chưa được khôi phục.
Hiện nay trong năm, tại chùa chỉ diễn ra bốn khóa lễ vào các ngày sau theo âm lịch: Lễ Thượng Nguyên (rằm tháng Giêng); Lễ Phật Đản (8/4); Lễ Vu Lan (rằm tháng 7); Lễ Tất niên (15 tháng Chạp). Ngoài ra vào mùng 1 và ngày rằm đều có hương, hoa, trà, quả, bánh kẹo dâng cúng phật và các vị thần linh.
Chùa Lốc là công trình văn hóa tín ngưỡng lâu đời của nhân dân khu Mường Định nói riêng và nhân dân Mường Bi nói chung. Sự tồn tại của di tích còn là một trong những nhân tố phản ánh quá trình hình thành và phát triển làng xã của cư dân trên vùng đất này. Như chúng ta đã biết đây là vùng cư trú của đồng bào Mường Định-là một trong những vùng Mường cổ của huyện Tân Lạc, song với sự hiện diện và tồn tại của chùa Lốc đã góp thêm những dữ liệu về mối quan hệ có tính nguồn gốc của 2 dân tộc Việt và Mường.
Chùa Lốc tồn tại đến ngày nay tự nó đã mang trên mình một chiều dài lịch sử nhất định. Các di vật cổ như Bụt đá, bát hương gốm Thổ Hà, mang dấu ấn mỹ thuật thế kỷ XVIII…, đã chứng minh rằng cách ngày nay vài trăm năm di tích đã tồn tại. Trải qua nhiều sự kiện lịch sử, thời gian đã phần nào ảnh hưởng đến di tích. Hiện nay di tích gốc đã không còn nữa nhưng di tích vẫn bảo lưu được cổ vật quý có giá trị nghệ thuật, văn hóa cao đã góp phần bổ sung cho kho tàng văn hóa nước nhà thêm phong phú.
Lễ hội chùa Lốc xưa là một nét đẹp văn hoá đặc sắc, việc tổ chức và bảo tồn lễ hội chùa Lốc không chỉ là dịp để con người truyền đạt tình cảm, đạo lý và khát vọng cho nhau mà còn là dịp để con người giao hoà với quá khứ và hiện tại. Những nét đẹp văn hoá truyền thông đó, hoà quyện để tạo nên một giá trị văn hoá rất cần được gìn giữ và phát huy. Bên cạnh đó việc bảo tồn và phát huy lễ hội cổ truyền còn là tư liệu gốc cho các nhà nghiên cứu về lịch sử địa phương, nghiên cứu về dân tộc học. Là cơ sở để so sánh đặc trưng văn hoá của các dân tộc, phát huy nền văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc và làm theo đúng chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Di tích là vốn cổ, quý giá trong việc giáo dục, phát huy những truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
Với những giá trị to lớn trên, Ủy ban nhân dân tỉnh Hòa Bình đã ban hành Quyết định số 44/QĐ-UBND, ngày 09/01/2024 công nhận chùa Lốc là di tích lịch sử cấp tỉnh.
Việc công nhận chùa Lốc là di tích lịch sử cấp tỉnh là niềm vinh dự của nhân dân thị trấn Mãn Đức nói riêng và huyện Tân Lạc nói chung, là cơ sở pháp lý để bảo vệ và phát huy hơn nữa giá trị của di tích chùa Lốc.
Nguồn
Bình luận (0)