Sử sách ghi lại, Lê Văn Duyệt là một trong những bậc khai quốc công thần của triều Nguyễn. Ông sinh năm 1763, tại vòm Trà Lọt, thuộc làng Hoà Khánh, huyện Kiến Phong, tỉnh Định Tường (nay là xã Hoà Khánh, huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang), theo phò giúp chúa Nguyễn Ánh từ năm 1781.
Lê Văn Duyệt liên tục lập nhiều công lao, giúp Nguyễn Ánh nhanh chóng thống nhất giang sơn, lập nên triều Nguyễn. Sau này, ông được nhà vua trọng dụng, phong làm Khâm sai Chưởng Tả quân dinh Bình Tây tướng quân, tước Quận công (từ năm 1802) và Tổng trấn Gia Định (từ năm 1912-1916)…
Năm 1820, Lê Văn Duyệt được vua Minh Mạng giao chức Tổng trấn Gia Định lần thứ hai, tại chức cho đến khi qua đời vào năm 1832. Trong 12 năm này, ông có công lớn giúp Gia Định trở thành trung tâm thương mại sầm uất, an ninh trật tự đảm bảo, vùng đất phương Nam phát triển mạnh mẽ.
Thế nhưng, bị kịch đã ập đến với gia đình Lê Văn Duyệt ngay sau khi vị trọng thần khai quốc triều Nguyễn qua đời.
Theo “Việt Nam sử lược” (NXB Văn học, 1920), sau khi Lê Văn Duyệt mất, vua Minh Mạng bãi chức Tổng trấn Gia Định và chia 5 trấn Nam bộ thành 6 tỉnh, đặt lại chức quan và bộ máy chính quyền, quân đội tại đây.
Trong đó, Bạch Xuân Nguyên được vua Minh Mạng điều đến làm Bố chính tại Phiên An (tức Gia Định). Lấy danh nghĩa phụng mật chỉ truy quét việc riêng của Lê Văn Duyệt, Bạch Xuân Nguyên đòi hỏi chứng cứ, trị tội các tôi tớ của Lê Văn Duyệt. Con nuôi của ông là Lê Văn Khôi căm phẫn, bèn khởi binh chống lại.
Biết tin, vua Minh Mạng tức giận, sai quân đi đánh dẹp, đồng thời trách Lê Văn Duyệt “che chở quân phỉ đảng, để gây nên bọn loạn”.
Ngày 18.5 năm Quý Tỵ (1833), Lê Văn Khôi cầm đầu 28 kẻ nổi loạn tràn vào dinh Bố chính giết chết Bạch Xuân Nghiêm. Tổng đốc Nguyễn Văn Quế đưa quân đến ứng cứu cũng bị quân khởi loạn giết chết.
Cuộc bạo loạn bị đàn áp đẫm máu nhưng chưa đến hồi kết. Tháng 12.1833, Lê Văn Khôi mắc bệnh mà chết. Nhưng đến năm 1835, quân thảo phạt mới chiếm được thành Phiên An.
Con trai Lê Văn Khôi lúc ấy mới 6 tuổi, cùng 5 người khác bị giải về kinh khép tội chủ mưu và xử lăng trì. Gần 2.000 loạn quân bị giết sạch, đem chôn chung một chỗ, gọi là “Mã Ngụy”.
Lê Văn Duyệt khi đó đã chết 3 năm, nhưng vẫn không tránh khỏi liên lụy. Theo sách “Đại Nam liệt truyện” (biên soạn: Quốc sử quán triều Nguyễn, NXB Thuận Hóa, 2006), sau khi triều đình dẹp xong cuộc nổi dậy của Lê Văn Khôi, nhân Phan Bá Đạt ở Đô sát Viện dâng sớ kể tội Tả Quân, Minh Mạng liền dụ cho đình thần nghị xử.
Nội các là Hà Văn Quyền, Nguyễn Tri Phương, Hoàng Quỳnh dâng sớ tội trạng của Lê Văn Duyệt. Đến khi nghị án xong, có bảy tội nên trảm (chém), hai tội nên giảo (thắt cổ), một tội phải sung quân.
Sau đó, Minh Mạng ra dụ có đoạn: “Tội Lê Văn Duyệt nhổ từng cái tóc mà kể cũng không hết, nói ra đau lòng, dù có bửa quan quách mà giết thây cũng là đáng tội. Song nghĩ hắn chết đã lâu và đã truy đoạt quan tước, xương khô trong mả, chẳng cần gia hình chi cho uổng công.
Vậy cho Tổng đốc Gia Định đến chỗ mả hắn cuốc bỏ núm mộ san bằng mặt đất và khắc đá dựng bia ở trên viết to mấy chữ: “Quyền yêm Lê Văn Duyệt phục pháp xứ” (Chỗ này là nơi hoạn quan Lê Văn Duyệt chịu hình phạt)…”
Lệnh được thực thi, mộ cha mẹ Lê Văn Duyệt ở Long Hưng (nay thuộc Châu Thành, Tiền Giang) cũng bị đục bỏ tước hiệu khắc trên bia.
Theo sách “Quốc triều chính biên toát yếu” (NXB Thuận Hóa, 1998), năm Tân Sửu (1841), vua Thiệu Trị lên ngôi, ban lệnh tha tội cho các thân thuộc của Lê Văn Duyệt và 1 vị quan khác là Lê Chất.
Năm 1948, thời vua Tự Đức, Đông Các đại học sĩ Võ Xuân Cẩn dâng sớ xin lục dụng những con cháu của Nguyễn Văn Thành, Lê Văn Duyệt và Lê Chất. Lời tâu làm vua cảm động, bèn cho cho cháu Lê Văn Duyệt là Điển làm chư quân Cai đội.
Năm 1949, đình thần xin rửa tội cho Lê Văn Duyệt, cấp trả khu vực mộ của ông cho người cháu họ là Lê Văn Niên trông coi. Mộ cha mẹ Lê Văn Duyệt ở thôn Long Thịnh cũng đều cho tu sửa.
Tuy nhiên, mãi đến năm 1868, nhà vua mới chính thức ban lệnh truy phục chức hàm cho Lê Văn Duyệt (là Chưởng Tả Quân Đại tướng quân), đồng thời cho thờ trong miếu Trung hưng công thần ở Huế.
Sau nhiều năm bị hàm oan và thành tội đồ của lịch sử, cuối cùng Lê Văn Duyệt cũng được gột rửa, lấy lại danh dự và tước vị. Với công lao to lớn lúc sinh thời, đền thờ ông sau này được lập ở nhiều nơi, đặc biệt là vùng Nam Bộ.
Bình luận (0)