Quy định về tiêu chuẩn chức danh cán bộ thuộc diện Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý và khung tiêu chuẩn chức danh cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, vừa được Bộ Chính trị nêu rõ trong Quy định số 365.
6 tiêu chuẩn chung cán bộ, lãnh đạo quản lý các cấp phải đáp ứng liên quan các tiêu chuẩn về chính trị, tư tưởng; phẩm chất đạo đức, lối sống và ý thức tổ chức kỷ luật; trình độ, năng lực; uy tín và khả năng quy tụ, đoàn kết; kết quả công tác; sức khoẻ, độ tuổi và kinh nghiệm.
Đi kèm với đó, mỗi chức danh cụ thể sẽ phải đi kèm với những tiêu chuẩn cụ thể riêng, theo quy định của Bộ Chính trị.

Các đại biểu dự Hội nghị Trung ương 11 khóa XIII (Ảnh: Đoàn Bắc).
Với bộ trưởng và tương đương, Bộ Chính trị quy định chức danh này phải bảo đảm đầy đủ các tiêu chuẩn chung của Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, còn phải có thêm các tiêu chuẩn riêng.
Người giữ chức danh bộ trưởng phải là người có trình độ về quản lý Nhà nước, nắm chắc pháp luật Việt Nam, pháp luật và thông lệ quốc tế.
Chức danh này cũng phải có năng lực cụ thể hoá chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước để hoạch định phương hướng, chính sách phát triển ngành, lĩnh vực được phân công và chỉ đạo thực hiện có hiệu quả.
Bộ trưởng cũng cần có năng lực phối hợp giữa các ban, bộ, ngành và giữa Trung ương với địa phương, xử lý các vấn đề liên ngành, liên vùng và cả nước, tạo sự đồng bộ trong thực hiện chính sách chung của Đảng, Nhà nước.
Bộ Chính trị nêu rõ, bộ trưởng phải là người có kinh nghiệm lãnh đạo, điều hành và quyết đoán, quyết liệt, kịp thời quyết định những vấn đề khó, phức tạp thuộc ngành, lĩnh vực phụ trách; không bị chi phối bởi lợi ích nhóm.
Theo Bộ Chính trị, chức danh bộ trưởng và tương đương phải là người có trình độ chuyên môn sâu về lĩnh vực phụ trách; có năng lực chỉ đạo phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số. Chức danh này cũng cần có khả năng thích nghi với sự thay đổi nhanh chóng của công nghệ và đổi mới cách thức lãnh đạo, quản lý; có khả năng phân tích định hướng về các giải pháp công nghệ để thực hiện nhiệm vụ chuyên môn của ngành, lĩnh vực.
Họ cũng phải là người đã kinh qua và hoàn thành tốt nhiệm vụ ở chức vụ lãnh đạo, quản lý cấp thứ trưởng hoặc phó trưởng ban, bộ, ngành, đoàn thể Trung ương hoặc lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh. Trường hợp đặc biệt do Bộ Chính trị quyết định.
Bí thư tỉnh ủy, thành ủy bên cạnh phải bảo đảm đầy đủ các tiêu chuẩn chung của Ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư hoặc Ủy viên Trung ương, phải là người tiêu biểu nhất về đạo đức, trí tuệ, có uy tín cao, là hạt nhân đoàn kết trong thường trực, ban thường vụ, ban chấp hành và đảng bộ.
Chức danh này phải là người có trình độ, kiến thức toàn diện về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại... nắm chắc tình hình địa phương và tình hình chung của đất nước.
Bên cạnh đó, bí thư các tỉnh thành cần có kinh nghiệm, năng lực, quyết tâm chính trị cao, quyết đoán, quyết liệt để quyết định xử lý những vấn đề khó, mới, phức tạp liên quan đến địa phương.
Theo quy định mới của Bộ Chính trị, bí thư tỉnh ủy, thành ủy phải am hiểu sâu rộng về công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị, quốc phòng, an ninh và đối ngoại, quản lý kinh tế - xã hội và công tác vận động quần chúng; có tư duy, năng lực cụ thể hoá chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước vào việc hoạch định chiến lược phát triển nhanh và bền vững ở địa phương.
Chức danh này phải là người chủ trì lãnh đạo tổ chức thực hiện kịp thời, có hiệu quả nghị quyết của Trung ương, nghị quyết đại hội đảng bộ tỉnh, thành phố; có khả năng lãnh đạo, điều hành tập thể thường trực, ban thường vụ, ban chấp hành, chỉ đạo toàn diện các cấp, các ngành, các tổ chức trong hệ thống chính trị địa phương.
Bí thư tỉnh ủy, thành ủy phải chủ động, sáng tạo trong việc giải quyết các vấn đề mới, vấn đề khó, phức tạp; đáp ứng yêu cầu và điều kiện thực tiễn của địa phương và phù hợp với chiến lược phát triển chung.
Họ cũng cần thường xuyên cập nhật kiến thức, đổi mới phương pháp làm việc, có năng lực, quyết tâm, quyết liệt trong lãnh đạo, chỉ đạo ứng dụng khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ chính trị của địa phương.
Bộ Chính trị nêu rõ, Bí thư tỉnh ủy, thành ủy phải là người đã kinh qua và hoàn thành tốt nhiệm vụ ở chức vụ phó bí thư cấp ủy cấp tỉnh, phó trưởng ban đảng ở Trung ương, thứ trưởng hoặc tương đương trở lên.
Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố theo quy định của Bộ Chính trị, phải là người có trình độ, kiến thức toàn diện về pháp luật và quản lý hành chính Nhà nước; am hiểu sâu về tình hình chính trị, kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng, đối ngoại của địa phương và đất nước, các lĩnh vực quy hoạch, đầu tư công, cải cách hành chính, chuyển đổi số, quản lý tài chính - ngân sách, chỉ số năng lực cạnh tranh và các yêu cầu quản trị địa phương hiện đại.
Họ cũng là người có năng lực toàn diện về tổ chức, quản lý, chỉ đạo, điều hành các cơ quan chuyên môn thuộc quyền và UBND cấp dưới; quyết đoán, quyết liệt, kịp thời để quyết định những vấn đề khó, phức tạp liên quan đến quản lý Nhà nước ở địa phương.
Người đứng đầu chính quyền cấp tỉnh cũng cần khả năng ứng phó nhanh với các tình huống khẩn cấp, đột xuất, bất ngờ như thiên tai, dịch bệnh, bất ổn xã hội hoặc biến động kinh tế - tài chính lớn tại địa phương; năng lực lãnh đạo, quản lý và điều hành, giải quyết các vấn đề mới, khó, phức tạp.
Ngoài ra, chủ tịch UBND tỉnh, thành phố phải từng kinh qua lãnh đạo chủ chốt cấp xã mới hoặc cấp huyện cũ (bí thư, phó bí thư, chủ tịch HĐND, chủ tịch UBND), lãnh đạo các sở, ban, ngành cấp tỉnh và hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Nguồn: https://dantri.com.vn/thoi-su/bo-chinh-tri-ra-tieu-chuan-chon-bo-truong-va-bi-thu-cac-tinh-thanh-20250920104557117.htm
Bình luận (0)