Ngày 18/4, tại Hà Nội, Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam tổ chức tọa đàm góp ý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng 2024. Tọa đàm nhằm lắng nghe ý kiến của các tổ chức tín dụng, giúp cơ quan soạn thảo hoàn thiện dự thảo Luật trước khi trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV (dự kiến khai mạc vào tháng 5/2025).
Phát biểu khai mạc buổi tọa đàm, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Ngân hàng Nguyễn Quốc Hùng cho biết, xử lý nợ xấu tại các tổ chức tín dụng thời gian qua gặp rất nhiều khó khăn, nhất là khi Nghị quyết 42/2017/QH14 hết hiệu lực và Luật Các tổ chức tín dụng mới được thông qua, một số nội dung xử lý nợ xấu không được quy định trong luật. “Việc góp ý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung vấn đề xử lý nợ xấu không chỉ giúp các tổ chức tín dụng trong vấn đề thu hồi nợ và cao hơn là ý thức trách nhiệm của khách hàng trong việc trả nợ”, Tiến sĩ Hùng nhấn mạnh.
Hai tháng đầu năm, nợ xấu tăng 34.000 tỷ đồng
Theo đại diện Hiệp hội Ngân hàng, Luật Các tổ chức tín dụng 2024 đã có hiệu lực từ ngày 1/7/2024. Trước khi Luật được Quốc hội thông qua, Hiệp hội Ngân hàng là một trong những đơn vị rất tích cực tham gia cùng Ngân hàng Nhà nước Việt Nam để xây dựng dự thảo Luật. Quá trình dự thảo ban đầu có nội dung quy định về thu giữ tài sản bảo đảm trong quá trình xử lý nợ xấu của tổ chức tín dụng, tuy nhiên, khi Luật Các tổ chức tín dụng 2024 được thông qua không có nội dung này.
Cùng với đó, Nghị quyết 42/2017/QH14 cũng đã hết hiệu lực vào ngày 31/12/2023, ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc xử lý, thu hồi nợ của một số tổ chức tín dụng và tổ chức mua bán, xử lý nợ.
Trên thực tế, mặc dù các tổ chức tín dụng đã rất tích cực, chủ động triển khai nhiều biện pháp để xử lý nợ xấu, kiểm soát và hạn chế nợ xấu mới phát sinh, tăng cường công tác tín dụng và triển khai chính sách cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ nhằm hỗ trợ khách hàng; nhưng trước bối cảnh kinh tế trong nước vẫn gặp nhiều khó khăn do tác động của tình hình thế giới, trong khi hành lang pháp lý về xử lý tài sản bảo đảm, xử lý nợ xấu còn nhiều bất cập, chưa có sự đồng bộ và thống nhất, dẫn đến nợ xấu gia tăng.
![]() |
Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam Nguyễn Quốc Hùng phát biểu. |
Đến cuối tháng 12/2024, tỷ lệ nội bảng, nợ bán cho VAMC chưa được xử lý, thu hồi và nợ tiềm ẩn trở thành nợ xấu của hệ thống các tổ chức tín dụng ở mức 5,36% so với tổng dư nợ, bao gồm cả 5 ngân hàng tái cấu trúc. Nếu loại trừ 5 ngân hàng tái cấu trúc thì tỷ lệ nợ xấu khoảng 1,93%, tăng khoảng 0,2% so với năm 2023.
Năm 2024, tỷ lệ thu hồi nợ chủ yếu liên quan đến tài sản bảo đảm chiếm khoảng 46,6%. Tỷ lệ khách hàng chủ động trả nợ các ngân hàng với khoản nợ xấu chỉ chiếm 36%; còn lại nợ bán cho VAMC, nợ thi hành án thông qua bán tài sản bảo đảm chiếm tỷ lệ rất thấp, khoảng 7.000 tỷ đồng.
Hai tháng đầu năm 2025, nợ xấu tăng nhanh (tăng khoảng 34.000 tỷ đồng), trong khi tốc độ xử lý nợ xấu chỉ đạt khoảng 15.000 tỷ đồng do các tổ chức tín dụng trích dự phòng rủi ro để xử lý.
“Như vậy, nguồn xử lý nợ xấu chủ yếu đến từ việc các tổ chức tín dụng trích từ dự phòng rủi ro, điều này đã ảnh hưởng rất lớn đến kết quả kinh doanh của các ngân hàng, cũng như giảm nguồn lực hỗ trợ ngược lại các doanh nghiệp, dòng tiền không luân chuyển được, ảnh hưởng đến thanh khoản nếu không xử lý kịp thời. Kể cả các bản án đã có hiệu lực thi hành cũng rất vướng mắc, khó khăn. Có bản án có hiệu lực thi hành rồi, nhưng qua 27-28 lần thi hành án, đấu giá, phát mại tài sản nhưng vẫn không xử lý được vì vướng Luật Đất đai. Trong số hơn 40.000 các vụ việc có hiệu lực thi hành, chuyển sang thi hành án, năm 2024, chỉ giải quyết được 15% vụ án với số tiền nhỏ so với bản án có hiệu lực”, Tổng thư ký Hiệp hội Ngân hàng Nguyễn Quốc Hùng cho hay.
Lấp khoảng trống pháp lý
Tại buổi tọa đàm, Tiến sĩ Cấn Văn Lực, Thành viên Hội đồng tư vấn chính sách tài chính-tiền tệ quốc gia cho biết, sửa đổi Luật Các tổ chức tín dụng lần này là nhằm lấp khoảng trống pháp lý, quy định rõ các điểm còn mơ hồ, chưa rõ ràng; bảo đảm tính đồng bộ, nhất quán giữa các luật có liên quan. Đặc biệt quan trọng hơn, là tháo gỡ vướng mắc, rào cản, khơi thông nguồn lực, nâng cao hiệu quả, chất lượng pháp luật và đúng tinh thần của Tổng Bí thư, Thủ tướng chỉ đạo: “kiến tạo phát triển, song vẫn kiểm soát được rủi ro, chống lãng phí, nhất là trong các lĩnh vực đất đai, bất động sản, tiếp cận vốn, thực thi pháp luật…”; nhất là trong bối cảnh nợ xấu gia tăng, rủi ro chiến tranh thương mại-công nghệ ở mức cao, tác động lớn đến nền kinh tế, doanh nghiệp và thị trường tài chính-tiền tệ Việt Nam.
Theo Tiến sĩ Cấn Văn Lực, dự thảo Luật Các tổ chức tín dụng ngày 7/3/2025 bổ sung 03 điều (198a, b và c), qua đó chính thức luật hóa các quy định liên quan đến quyền thu giữ tài sản bảo đảm, kê biên tài sản của bên phải thi hành án đang được sử dụng làm tài sản bảo đảm cho khoản nợ xấu và hoàn trả tài sản bảo đảm là vật chứng trong vụ án hình sự, là tang vật, phương tiện vi phạm hành chính vụ việc vi phạm hành chính. Những nội dung này vốn dĩ đã được quy định trong Nghị quyết 42/2017, nhưng khi Nghị quyết 42 này hết hiệu lực, Luật Các tổ chức tín dụng 2024 lại không quy định 03 điều này.
“Do đó, những thay đổi này sẽ giải quyết các vướng mắc trong quá trình xử lý tài sản bảo đảm, xử lý nợ xấu, đồng thời hài hòa hóa giữa việc bảo vệ quyền chủ nợ của tổ chức tín dụng với việc thực thi các bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền. Cũng với đó, sẽ đẩy nhanh tốc độ xử lý nợ xấu và giảm chi phí hoạt động của các tổ chức tín dụng, từ đó hỗ trợ việc giảm lãi suất cũng như tăng khả năng cung ứng vốn cho nền kinh tế; đồng thời tăng ý thức trách nhiệm của bên đi vay”, Tiến sĩ Lực khẳng định.
![]() |
Chuyên gia kinh tế, Tiến sĩ Cấn Văn Lực góp ý kiến cho dự thảo Luật Các tổ chức tín dụng. |
Cũng xuất phát từ thực tiễn, vướng mắc của các tổ chức tín dụng và những quan điểm đã dự thảo để đưa vào Luật Các tổ chức tín dụng trước đây, Hiệp hội Ngân hàng đã tổng hợp ba nội dung chính gồm: luật hóa quy định về quyền thu giữ tài sản bảo đảm; luật hóa quy định về kê biên tài sản bảo đảm của bên phải thi hành án; luật hóa quy định về hoàn trả tài sản bảo đảm là vật chứng trong vụ án hình sự và bổ sung quy định về hoàn trả tài sản bảo đảm là tang vật, phương tiện vi phạm hành chính.
Theo đó, về quy định thu giữ tài sản bảo đảm, nội dung quan trọng nhất là cần truyền thông để người dân hiểu, ý thức trách nhiệm đã vay vốn ngân hàng là phải trả nợ, nếu không trả được nợ thì phải tự nguyện bàn giao tài sản bảo đảm cho ngân hàng hoặc tự xử lý tài sản bảo đảm để trả nợ ngân hàng. Cùng với đó, cần đưa vào luật trách nhiệm của cơ quan cấp xã gắn liền với nơi có tài sản bảo đảm để có thể phối hợp hỗ trợ các tổ chức tín dụng trong thu giữ tài sản bảo đảm theo quy định của pháp luật.
Về quy định về kê biên tài sản bảo đảm của bên phải thi hành án: tổ chức tín dụng sẽ chỉ được kê biên với những trường hợp ảnh hưởng tới sức khoẻ của người vay hoặc có sự đồng ý của tổ chức tín dụng. Như vậy, đã có tài sản bảo đảm mà tài sản bảo đảm đã bảo đảm khoản nợ thì ngay cả khi kê biên cũng được xem xét đối với những bản án có hiệu lực khác nhằm bảo đảm quyền của các tổ chức tín dụng.
Về hoàn trả tài sản bảo đảm là vật chứng trong vụ án hình sự, là tang vật, phương tiện vi phạm hành chính vụ việc vi phạm hành chính. Đã có nhiều bản án liên quan đến hình sự, dân sự, hành chính; trong quá trình xét xử, điều tra, xem xét, các tài sản bảo đảm này gần như đóng băng, thậm chí có tài sản sau khi bản án có hiệu lực thì có giá trị bằng 0 vì xuống cấp, tài sản hỏng như hàng hoá... “Đây là một trong những điểm mở của dự thảo Luật Các tổ chức tín dụng sửa đổi lần này khi những tài sản không ảnh hưởng đến quá trình xét xử, xử lý sau xét xử thì sẽ được hoàn trả”, Tổng Thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam Nguyễn Quốc Hùng nêu ý kiến.
Nguồn: https://nhandan.vn/can-som-luat-hoa-nghi-quyet-42-ve-xu-ly-no-xau-post873478.html
Bình luận (0)