Mắc ca, khôi nhung, ba kích… bén đất rừng
Ông Quang Văn Thanh, trưởng bản Mường Piệt, xã Thông Thụ hồ hởi dẫn chúng tôi ra thăm vườn mắc ca mới trồng được hơn 1 năm tuổi. Những hàng mắc ca xanh mướt đang vươn mình giữa triền đồi. “Đợt vừa qua, bản có 6 hộ được hỗ trợ trồng theo Đề án của Chương trình 1719, riêng tôi trồng 300 cây. Cây bén rễ tốt, tỷ lệ sống rất cao, hứa hẹn cho quả bói trong vài năm tới”, ông Thanh phấn khởi nói.
Từ ngày cây mắc ca được đưa về, người dân Mường Piệt, Mường Phú, Na Lướm như có thêm niềm tin vào hướng làm kinh tế mới. Chính quyền xã cũng vào cuộc, phối hợp với cơ quan chuyên môn tổ chức tập huấn, hướng dẫn kỹ thuật, khuyến khích bà con tận dụng đất trống, đồi núi kém hiệu quả để chuyển đổi. Đến nay, toàn xã đã có 29 hộ trồng mắc ca từ nguồn vốn hỗ trợ của Chương trình mục tiêu quốc gia. Người dân được cấp giống, phân bón, hướng dẫn kỹ thuật chăm sóc, lại có nơi tiêu thụ ổn định nên ai cũng yên tâm gắn bó lâu dài.
Cũng nằm trong khuôn khổ Chương trình Mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, ở xã Mường Xén đang triển khai mô hình trồng sa nhân tím, mở ra cơ hội thoát nghèo bền vững cho hàng chục hộ đồng bào Mông. Với tổng kinh phí hỗ trợ 660 triệu đồng, 70 hộ nghèo và cận nghèo được cấp giống, phân bón, tập huấn kỹ thuật trồng, chăm sóc. Gần 70.000 cây sa nhân tím được trồng xen trong vườn đào, dưới tán rừng tự nhiên thứ sinh và rừng trồng 2-3 năm tuổi, tỷ lệ cây sống đạt trên 95%. Loài cây này không chỉ mang lại giá trị kinh tế cao mà còn góp phần giữ rừng, chống cháy, chống xói mòn nhờ bộ rễ phát triển và thân chứa nhiều nước.
Theo tính toán, khi bước vào giai đoạn thu hoạch ổn định từ năm thứ ba trở đi, năng suất đạt khoảng 1 – 1,5 tấn quả tươi mỗi ha, cho thu nhập 50 – 70 triệu đồng, cao gấp nhiều lần trồng ngô, trồng sắn. Nhờ trồng xen canh với các loại cây khác, sa nhân tím còn tạo nên một hệ sinh thái thảm thực vật đa tầng, vừa bảo vệ môi trường, vừa giúp đất tơi xốp, giữ ẩm tốt.
Hiện, ở các xã vùng cao của huyện Tương Dương (cũ) như Yên Hoà, Yên Na, Nga My, Tam Thái… nhiều hộ dân đang tận dụng diện tích rừng và đồi để trồng dược liệu. Trong khuôn khổ Dự án 3 về phát triển sản xuất nông, lâm nghiệp bền vững, phát huy tiềm năng, thế mạnh của địa phương để sản xuất hàng hóa theo chuỗi giá trị, hai mô hình trồng dược liệu đã được triển khai với 35 hộ dân tham gia. Ở xã Yên Hòa, cây khôi nhung tía được trồng hơn 3ha ngay dưới tán rừng săng lẻ, cây nào cũng xanh tốt, phát triển nhanh, tỷ lệ sống gần 100%.
Cạnh đó, trong những cánh rừng tự nhiên của bản Cọc, bản Yên Tân, người dân trồng thêm ba kích và chè hoa vàng. Sau 3 năm triển khai, xã Yên Hòa đã có hơn 9ha dược liệu các loại, là nguồn vốn quý hỗ trợ cho gần 100 hộ nghèo, cận nghèo tham gia. Việc trồng cây dược liệu dưới tán rừng không chỉ giúp người dân có thu nhập ổn định mà còn góp phần bảo vệ rừng, tạo sinh kế bền vững. Những mô hình trồng dược liệu ấy, dù mới triển khai, nhưng đã mở ra hướng đi mới cho kinh tế miền núi. Từ chỗ chỉ dựa vào keo, ngô, sắn, nay bà con đã có thêm cây trồng giá trị cao, giúp khai thác hiệu quả đất đai, giảm nghèo bền vững và tạo nền tảng để phát triển kinh tế xanh, kinh tế rừng.
Kiến tạo chuỗi giá trị dược liệu bền vững
Với hơn 1.000 loài cây dược liệu quý hiếm, Nghệ An được xem là “kho báu xanh” của cả nước. Thực hiện Tiểu dự án 2, Dự án 3 thuộc Chương trình Mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 – 2030, việc phát triển vùng trồng dược liệu quý theo chuỗi giá trị đã giúp đánh thức tiềm năng ấy, biến rừng thành “nguồn thu” cho người dân. Hiện, toàn tỉnh đã hình thành hơn 1.450ha vùng trồng dược liệu. Trong đó có những cây trồng quy mô lớn như chanh leo, gấc, nghệ, thảo đậu khấu nam; những loại quế, bồ bồ, hành tăm trồng phân tán ở các vùng trung du, miền núi; và các cây thuốc nam như hòe, cà gai leo, mã đề, chè vằng, kim tiền thảo… phục vụ thị trường nội địa.
Đặc biệt, các loài quý hiếm như sâm Puxailaileng, sâm bảy lá một hoa, lan kim tuyến, đỗ trọng, sa nhân tím… cũng đã được trồng thử nghiệm tại các vùng núi cao. Những kết quả ấy cho thấy nỗ lực hình thành các vùng nguyên liệu dược liệu tập trung, tạo chuỗi sản xuất khép kín từ trồng, thu hái đến chế biến, tiêu thụ. Thực tế, thu nhập từ cây dược liệu cao gấp nhiều lần so với cây trồng truyền thống, có loại đạt hiệu quả kinh tế gấp 10 lần so với ngô, sắn, giúp người dân có thể làm giàu ngay trên mảnh đất quê hương.
Tuy vậy, cây dược liệu cũng đòi hỏi vốn đầu tư ban đầu lớn, kỹ thuật trồng và chăm sóc phức tạp, trong khi cơ sở hạ tầng vùng trồng còn thiếu thốn. Vì thế, việc thu hút doanh nghiệp liên kết sản xuất, chế biến và bao tiêu sản phẩm trở thành khâu then chốt. Đây cũng là hướng mà Nghệ An đang tập trung trong giai đoạn 2021 – 2025 để hình thành chuỗi giá trị dược liệu bền vững. Đến nay, trên địa bàn tỉnh đã có nhiều doanh nghiệp lớn đầu tư vào lĩnh vực này như Công ty Dược Nghệ An, Tập đoàn TH, Công ty HUDI, Công ty Dược liệu Pù Mát, Công ty Kim Sơn, Tập đoàn Y dược Sâm Ngọc Linh Việt Nam… với quy mô gần 2.000ha.
Các dự án được triển khai theo hình thức liên kết sản xuất, bao tiêu sản phẩm, tạo đầu ra ổn định cho nông dân và khuyến khích khởi nghiệp, đầu tư tại vùng cao. Nhiều hợp tác xã, hộ kinh doanh cá thể cũng chủ động trồng, thu hái, sơ chế dược liệu, tạo nên mạng lưới sản xuất lan tỏa, góp phần nâng cao giá trị sản phẩm địa phương. Các loại cây như ba kích, sa nhân, hà thủ ô đỏ, khôi tía được trồng xen dưới tán rừng tự nhiên, giúp người dân có thêm việc làm, đồng thời góp phần bảo tồn đa dạng sinh học.
Song song đó, nhiều chương trình khoa học và dự án hỗ trợ đã giúp sản xuất giống, phân tích chất lượng, chuyển giao kỹ thuật cho các vùng trồng, hướng đến chuẩn hóa sản phẩm đạt tiêu chuẩn GACP – WHO, mở đường cho dược liệu Nghệ An vươn ra thị trường trong nước và xuất khẩu.
Thực tế cho thấy, ở nhiều địa phương miền Tây Nghệ An, cây dược liệu đang thay đổi diện mạo vùng đất và đời sống người dân. Những thanh niên người Mông, Thái, Khơ Mú giờ không còn rời quê đi làm ăn xa mà chọn ở lại lập nghiệp với mô hình trồng, sơ chế, kinh doanh dược liệu. Những vùng đồi từng trơ trụi nay xanh mướt màu cây thuốc quý, còn rừng được bảo vệ tốt hơn nhờ lợi ích kinh tế mà nó mang lại.
Chương trình 1719 đã thổi luồng sinh khí mới vào vùng cao. Nhờ phát triển dược liệu theo chuỗi giá trị, người dân có thêm việc làm, doanh nghiệp có cơ hội đầu tư, còn địa phương có thêm động lực phát triển kinh tế xanh, bền vững. Không chỉ là câu chuyện trồng cây làm thuốc, đó còn là hành trình làm kinh tế từ tài nguyên rừng, hành trình khởi nghiệp và làm giàu của đồng bào dân tộc thiểu số. Giữa gam màu xanh của núi rừng xứ Nghệ hôm nay, cây dược liệu đang dần khẳng định vị thế, trở thành “chìa khóa” mở ra tương lai no ấm, bền vững cho người dân vùng cao.
Nguồn: https://baonghean.vn/huong-sinh-ke-xanh-noi-dai-ngan-nghe-an-10311038.html






Bình luận (0)