Bên cạnh nguồn vốn vay tín dụng của hệ thống ngân hàng, vốn huy động từ việc phát hành và phát hành trái phiếu được đánh giá là nguồn vốn ổn định, hiệu quả, góp phần quan trọng trong việc giảm “gánh nặng” tín dụng cho hệ thống ngân hàng. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, hoạt động của thị trường trái phiếu cũng như số lượng doanh nghiệp (DN) cung ứng trái phiếu trên địa bàn tỉnh vẫn còn rất khiêm tốn.
Nguồn vốn huy động từ các tổ chức, cá nhân đã góp phần hỗ trợ tích cực cho hoạt động sản xuất kinh doanh của nhiều DN trên địa bàn tỉnh. Trong ảnh: Công ty TNHH Quốc tế Hannam (KCN Bình Xuyên) chuyên sản xuất hàng may mặc xuất khẩu tạo việc làm thường xuyên cho trên 300 lao động với thu nhập bình quân từ 6 - 8 triệu đồng/người/tháng. Ảnh: Thế Hùng
Tại Khoản 3, Điều 4, Chương I - Luật Chứng khoán năm 2014 nêu rõ: "Trái phiếu là một sản phẩm chứng khoán xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với một phần nợ của tổ chức phát hành. Tổ chức phát hành trái phiếu có thể là chính phủ hoặc DN, có trách nhiệm thực hiện các cam kết về thanh toán các khoản lãi suất định kỳ, đồng thời khi đáo hạn phải hoàn lại số tiền ban đầu về cho nhà đầu tư".
Hiện nay, hoạt động ngân hàng có 3 nguồn huy động vốn chủ yếu là vốn tín dụng ngân hàng, vốn cổ phiếu và vốn trái phiếu.
Trong đó, vốn tín dụng ngân hàng tập trung vào vốn lưu động và các dịch vụ ngân hàng thương mại. Việc cung ứng vốn trung và dài hạn thông qua các dịch vụ ngân hàng thương mại gây nên những áp lực lớn và bất ổn cho hệ thống ngân hàng, bởi nguồn vốn huy động phần lớn là ngắn hạn song lại được sử dụng để cho vay trung và dài hạn.
Còn đối với loại hình vốn cổ phiếu, tuy cũng là vốn dài hạn nhưng lại liên quan đến quyền kiểm soát của chủ DN, tiềm ẩn những vấn đề phức tạp trong khâu quản lý.
Ngược lại, loại hình vốn huy động từ việc phát hành và bán trái phiếu có thể giúp DN có thêm một kênh dẫn vốn trung và dài hạn với lãi suất ổn định, theo đúng chủ trương của Chính phủ về phát triển cân bằng giữa thị trường vốn và thị trường tiền tệ, tín dụng.
Việc phát hành trái phiếu sẽ giúp DN đa dạng hình thức huy động vốn, giảm phụ thuộc vào nguồn vốn tín dụng từ các ngân hàng thương mại. Từ đó, các DN có thêm nguồn lực tài chính đầu tư cho cơ sở hạ tầng, trang thiết bị máy móc phục vụ hoạt động SXKD dài hạn.
Tuy nhiên, quá trình quản lý, giám sát hoạt động tín dụng, trong đó có lĩnh vực cung ứng trái phiếu còn tiềm ẩn nhiều rủi ro, có thể ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của thị trường trái phiếu nói chung.
Trên cơ sở chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) về hoạt động bảo lãnh, đại lý phát hành trái phiếu DN, nhằm đảm bảo an toàn cho hoạt động ngân hàng trên địa bàn, ngày 29/11/2022, NHNN Việt Nam chi nhánh Vĩnh Phúc đã ban hành văn bản số 1008 về hoạt động bảo lãnh, đại lý phát hành trái phiếu DN; hoạt động kinh doanh đại lý bảo hiểm.
Trong đó, yêu cầu Giám đốc các chi nhánh ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài - gọi chung là tổ chức tín dụng (TCTD) nghiêm túc chấp hành các quy định liên quan đến hoạt động bảo lãnh, đại lý phát hành trái phiếu DN như Nghị định số 153 của Chính phủ quy định về chào bán, giao dịch trái phiếu DN riêng lẻ tại thị trường trong nước và chào bán trái phiếu DN ra thị trường quốc tế (đã sửa đổi, bổ sung); Thông tư số 40 của NHNN Việt Nam quy định về cấp phép và tổ chức, hoạt động của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng tại Việt Nam (đã sửa đổi, bổ sung)...
Đối với hoạt động bảo lãnh, đại lý phát hành trái phiếu, các chi nhánh TCTD chỉ được cung cấp các dịch vụ liên quan đến trái phiếu DN theo giấy phép NHNN cấp và theo đúng quy định của pháp luật liên quan.
Các chi nhánh TCTD cung cấp đầy đủ, chính xác thông tin cho nhà đầu tư theo phương án phát hành trái phiếu đã được phê duyệt, đảm bảo không có nội dung để nhà đầu tư nhầm lẫn giữa việc mua trái phiếu DN và gửi tiền tại TCTD.
Chỉ phân phối trái phiếu cho nhà đầu tư đã được DN phát hành hoặc công ty chứng khoán được ủy quyền xác định tư cách nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp sau khi đảm bảo nhà đầu tư đã được tiếp cận, hiểu rõ đầy đủ thông tin và ký văn bản xác nhận theo quy định tại Điều 8 Nghị định số 153 của Chính phủ (đã sửa đổi, bổ sung); không được chào mời, hỗ trợ nhà đầu tư không thuộc đối tượng nhà đầu tư mua trái phiếu DN phát hành riêng lẻ.
Trường hợp cam kết với nhà đầu tư về việc mua lại trái phiếu DN thì phải ký hợp đồng với nhà đầu tư (nêu rõ điều kiện, điều khoản về việc mua lại trái phiếu) và phải tuân thủ đầy đủ các quy định của pháp luật chuyên ngành.
Định kỳ hằng quý, các chi nhánh TCTD trên địa bàn thực hiện báo cáo kịp thời về hoạt động bảo lãnh, đại lý phát hành trái phiếu DN bằng văn bản/email theo quy định.
Theo báo cáo của NHNN Việt Nam chi nhánh Vĩnh Phúc, ước đến hết tháng 7/2023, tổng nguồn vốn huy động trên địa bàn tỉnh đạt 118 nghìn tỷ đồng (tăng 7,68% so với cuối năm 2022).
Trong đó, tiền gửi các tổ chức kinh tế đạt 38,3 nghìn tỷ đồng (giảm 3,08% so với cuối năm 2022, chiếm tỷ lệ trên 32% tổng nguồn vốn huy động); tiền gửi tiết kiệm đạt 79 nghìn tỷ đồng (tăng hơn 14% so với cuối năm 2022 và chiếm tỷ lệ xấp xỉ 67%); phát hành giấy tờ có giá đạt 700 tỷ đồng (giảm hơn 10% so với cuối năm 2022 và chiếm tỷ lệ 0,6%).
Trong cơ cấu huy động vốn, chỉ có tiền gửi dân cư tăng trưởng tốt, bù đắp thiếu hụt từ huy động tổ chức kinh tế và phát hành giấy tờ có giá. Ngoài ra, không có nguồn huy động vốn từ hoạt động cung cấp trái phiếu Chính phủ cũng như trái phiếu DN do hiện nay trên địa bàn tỉnh không có đơn vị đăng ký phát hành trái phiếu.
Để góp phần khuyến khích các DN tham gia phát hành trái phiếu, thúc đẩy thị trường trái phiếu phát triển lành mạnh, an toàn, cần có thêm nhiều cơ chế, chính sách hỗ trợ vốn “mồi” để DN tăng cường đầu tư mở rộng quy mô SXKD.
Từ đó, góp phần nâng cao năng lực tài chính, đa dạng hóa các sản phẩm, dịch vụ cho DN, tạo nền tảng vững chắc để DN từng bước đáp ứng các điều kiện phát hành trái phiếu theo quy định của Nhà nước.
Việt Sơn
Nguồn
Bình luận (0)