Thực hiện Công văn số 561/HĐND-VP ngày 20/11/2024 của Thường trực HĐND tỉnh; Báo cáo số 44/BC-MTTQ-BTT ngày 19/11/2024 của Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh về việc tổng hợp ý kiến và đề nghị giải quyết và trả lời kiến nghị của cử tri trước kỳ họp thứ hai mươi lăm HĐND tỉnh khóa XV, Ủy ban nhân dân tỉnh đã ban hành Công văn số 4748/UBND-TH ngày 22/11/2024 chỉ đạo Thủ trưởng các sở, ban, ngành tỉnh, Chủ tịch UBND các huyện, thành phố, các đơn vị có liên quan tập trung khẩn trương giải quyết các kiến nghị của cử tri, đối với các nội dung vượt thẩm quyền, báo cáo UBND tỉnh xem xét, giải quyết. UBND tỉnh báo cáo kết quả thực hiện như sau:
VỀ ĐẦU TƯ CƠ SỞ HẠ TẦNG, HỖ TRỢ PHÁT TRIỂN SẢN XUẤT, SẮP XẾP ỔN ĐỊNH DÂN CƯ
Cử tri bản Căng Ký, xã Tung Qua Lìn, huyện Phong Thổ: Có hơn 20 hộ dân thuộc các bản: Căng Ký, Căng Há, Cò Ký đã góp tiền mua một mảnh đất phía ta luy âm tại Km 31 + 570 Tỉnh lộ 132 từ Dào San đi Sì Lở Lầu để làm bãi đổ rác tập trung. Ngày 22/8/2024, Công ty Cổ phần xây dựng công trình 389 thuộc Sở Giao thông vận tải đã lắp hàng rào hộ lan nên không còn lối vào để đổ rác. Cử tri kiến nghị UBND tỉnh có ý kiến với Sở Giao thông vận tải xem xét, tháo bớt một thanh hộ lan khoảng 2 mét hoặc mở một lối cửa đóng bản lề để tạo điều kiện các hộ có thể vào đổ rác cho thuận lợi.
UBND tỉnh trả lời như sau:
UBND tỉnh đã chỉ đạo Sở Giao thông vận tải phối hợp cùng chính quyền địa phương kiểm tra thực địa vị trí Km31+570/ĐT.132 (Km35+570/ĐT.132 theo lý trình mới), hiện trạng vị trí này đã được lắp dựng hộ lan mềm để đảm bảo an toàn giao thông. Qua kiểm tra việc tháo bớt một thanh hộ lan khoảng 2 mét hoặc mở một lối cửa đóng bản lề để tạo điều kiện các hộ có thể vào đổ rác cho thuận lợi theo kiến nghị của cử tri là không phù hợp.
Lý do: Địa hình tại vị trí Km31+570/ĐT.132 một bên là núi cao, một bên là vực sâu, mặt đường hẹp (đường cấp VImn) vị trí này nằm giữa hai khúc cua gấp, ôm đồi, tầm nhìn hạn chế. Việc tháo bớt hộ lan hoặc mở một lối cửa đóng bản lề tiềm ẩn nguy cơ gây mất an toàn giao thông, nguy hiểm cho các phương tiện tham gia giao thông. Đề nghị UBND huyện Phong Thổ chỉ đạo xã Tung Qua Lìn lựa chọn bãi đổ rác cho các hộ gia đình thuộc bản Căng Ký, Căng Há, Cò Ký bảo đảm đúng quy định, vệ sinh môi trường và an toàn giao thông.
Cử tri xã Huổi Luông, huyện Phong Thổ: Hiện nay tuyến đường giao thông Pa Tần - Huổi Luông - Pa Nậm Cúm, đoạn đi qua địa phận bản Na Sa Phìn, xã Huổi Luông có một vị trí nền đường và lề đường phía ta luy âm bị sụt lún dài khoảng hơn 20 m, có nguy cơ gây sạt lở xuống 05 hộ dân ở phía dưới; đề nghị UBND tỉnh quan tâm chỉ đạo Sở Giao thông vận tải bố trí kinh phí sửa chữa để đảm bảo an toàn cho người dân.
UBND tỉnh trả lời như sau:
Vị trí cử tri phản ánh thuộc lý trình Km22+495 - Km22+515 đường Pa Tần - Huổi Luông - Pa Nậm Cúm, qua kiểm tra xác minh kết quả như sau:
Phía taluy âm trong phạm vi hành lang đường bộ không xuất hiện vết nứt như cử tri nêu. Vị trí lún nền, lề đường dài khoảng 20m theo ý kiến cử tri thuộc phạm vi Km22+495 - Km22+515 đường Pa Tần - Huổi Luông - Pa Nậm Cúm nằm trong phạm vi nền, mặt đường, Sở Giao thông vận tải sẽ chỉ đạo khắc phục trong công tác bảo dưỡng thường xuyên năm 2024.
Đối với ngoài phạm vi đất dành cho đường bộ, qua kiểm tra thực địa chưa thấy xuất hiện vết nứt. Tuy nhiên, để bảo đảm an toàn tại khu vực 5 hộ dân đề nghị UBND xã Huổi Luông tiếp tục theo dõi kiểm tra và báo cáo UBND huyện Phong Thổ để kịp thời giải quyết theo thẩm quyền.
Cử tri xã Nậm Ban, huyện Nậm Nhùn: UBND tỉnh xem xét, kè công trình Trường Tiểu học và Trung học cơ sở xã Nậm Ban; vì hiện nay vị trí này có nguy cơ sạt lở cao.
UBND tỉnh trả lời như sau:
UBND tỉnh đã chỉ đạo Ban QLDA đầu tư xây dựng các công trình Dân dụng và Công nghiệp và các sở, ngành liên quan nghiên cứu, lập phương án xử lý vị trí có nguy cơ sạt lở tại cụm công trình Trường Tiểu học và Trung học cơ sở xã Nậm Ban để triển khai thực hiện khi bố trí được nguồn vốn.
Cử tri xã Mường Tè, huyện Mường Tè: Hiện nay vào mùa mưa lũ, bờ suối Nậm Hẳn đoạn qua bản thường xuyên bị sạt lở, ảnh hưởng đến diện tích sản xuất và nguy hiểm cho các hộ dân (khoảng 100 hộ dân và 3 - 4ha ruộng lúa). Cử tri đề nghị UBND tỉnh xem xét đầu tư kè suối Nậm Hẳn, gồm 2 đoạn khoảng 600m (trong đó đoạn 1 khoảng 400m, đoạn thứ 2 khoảng 200m).
UBND tỉnh trả lời như sau:
UBND tỉnh đã chỉ đạo UBND huyện Mường Tè và các cơ quan chuyên môn kiểm tra, đánh giá sự cần thiết của việc đầu tư làm cở sở để báo cáo cấp có thẩm quyền xem xét; nếu thực sự cấp bách sẽ đề nghị đưa vào kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2026-2030.
Cử tri Bản Nậm Ty, xã Nậm Hàng, huyện Nậm Nhùn: Đề nghị UBND tỉnh xem xét sớm bố trí mặt bằng sắp xếp lại dân cư cho bản Nậm Ty, xã Nậm Hàng, vì hiện nay bản có nguy cơ sạt lở cao ảnh hưởng đến đời sống của Nhân dân.
UBND tỉnh trả lời như sau:
Hiện nay, trên địa bàn tỉnh nhu cầu vốn đầu tư các dự án bố trí ổn định dân cư rất lớn, trong khi nguồn ngân sách Trung ương phân bổ cho địa phương và ngân sách của tỉnh còn hạn hẹp, cần ưu tiên thực hiện bố trí sắp xếp ổn định các điểm dân cư cấp bách trước. Đối với điểm sắp xếp bố trí dân cư cho bản Nậm Ty, xã Nậm Hàng, huyện Nậm Nhùn đã có trong danh mục đăng ký kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2026-2030 sử dụng nguồn vốn đầu tư công do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn quản lý tại Công văn số 3971/UBND-KTN ngày 02/10/2024 của UBND tỉnh.
Cử tri xã Bum Nưa, huyện Mường Tè: Hiện nay một số nhà máy thủy điện xây dựng trên dòng suối Nậm Bum, suối Nậm Sì Lường không thực hiện thường xuyên việc duy trì dòng chảy tối thiểu làm ảnh hưởng đến nguồn nước sản xuất nông nghiệp của nhân dân ở phía hạ lưu. Cử tri đề nghị UBND tỉnh chỉ đạo Sở Tài nguyên Môi trường và các cơ quan, đơn vị liên quan tăng cường công tác kiểm tra, xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật đối với các chủ đầu tư không thực hiện việc duy trì dòng chảy tối thiểu làm ảnh hưởng đến sản xuất của Nhân dân.
UBND tỉnh trả lời như sau:
UBND tỉnh đã chỉ đạo Sở Tài nguyên và Môi trường yêu cầu các dự án, công trình thủy điện thực hiện duy trì lưu lượng xả thường xuyên, liên tục sau đập của các dự án khai thác, sử dụng nước mặt (Công văn số 41/UBND-KTN ngày 05/01/2024 của UBND tỉnh, Công văn số 329/STNMT-KSN ngày 05/02/2024 của Sở Tài nguyên và Môi trường). Trong năm 2024, cấp thẩm quyền đã xử phạt vi phạm hành chính đối với 03 công trình thủy điện trên suối Nậm Sì Lường, suối Nậm Bum và suối Nậm Nghẹ với tổng số tiền 740 triệu đồng. Trong thời gian tới các Sở: Tài nguyên và Môi trường, Công Thương, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, UBND các huyện, thành phố sẽ tiếp tục tăng cường giám sát, kiểm tra việc chấp hành duy trì dòng chảy tối thiểu theo quy định của các công trình thủy điện và tiếp tục xử lý đối với các tổ chức không chấp hành theo các văn bản chỉ đạo của UBND tỉnh.
Cử tri huyện Tam Đường: Đề nghị UBND tỉnh có phương án làm kè chống sạt lở dọc theo bờ suối Nậm Dê từ đầu cầu treo Nà Hum đến giáp bản Nà Cà dài khoảng 900m để bảo vệ khoảng 20 ha đất lúa và cây trồng.
UBND tỉnh trả lời như sau:
Hiện nay trên địa bàn tỉnh nhu cầu đầu tư các dự án sắp xếp, bố trí dân cư là rất lớn, nhất là các dự án kè sông suối, tuy nhiên do nguồn vốn hạn chế, trước mắt sẽ ưu tiên để xây dựng kè sông suối bảo vệ dân cư. UBND tỉnh xin đã chỉ đạo UBND huyện Tam Đường và các cơ quan chuyên môn kiểm tra, đánh giá, nếu đủ điều kiện và bố trí được nguồn lực sẽ xem xét, đầu tư theo thứ tự ưu tiên.
VỀ CHẾ ĐỘ, CHÍNH SÁCH
Cử tri bản Hua Pản, xã Nậm Ban, huyện Nậm Nhùn: Năm 2024, nhà thầu hót sụt sạt và cắt qua tuyến đường Pa Tần - Mường Tè đã làm ảnh hưởng đến đất sản xuất và hoa mầu của hộ gia đình Lò A Tao, bản Hua Pản, xã Nậm Ban. Nhà thầu đã cam kết sẽ đền bù hỗ trợ nhưng đến nay chưa thực hiện. Đề nghị UBND tỉnh yêu cầu nhà thầu sớm đền bù, hỗ trợ cho hộ gia đình như cam kết.
UBND tỉnh trả lời như sau:
UBND tỉnh đã chỉ đạo Sở Giao thông vận tải phối hợp cùng chính quyền địa phương và đơn vị quản lý duy tu đường bộ kiểm tra xác minh theo ý kiến cử tri tại Km319+710/QL.4H (đường Pa Tần - Mường Tè), kết quả như sau:
Tại Km319+710/QL.4H (đường Pa Tần - Mường Tè) qua các đợt mưa lũ năm 2024, đã sạt lở ta luy dương xuống nền, mặt đường. Để đảm bảo an toàn giao thông, Sở Giao thông vận tải đã chỉ đạo đơn vị quản lý duy tu đường bộ (Công ty Cổ phần bảo trì đường bộ 1 Lai Châu), thực hiện hót sạt đảm bảo giao thông xử lý ùn tắc, không xử lý cắt cơ giảm tải. Công tác hót sạt đảm bảo giao thông trong phạm vi nền mặt đường không làm ảnh hưởng đến đất sản xuất và hoa mầu của hộ gia đình Lò A Tao, bản Hua Pản, xã Nậm Ban.
Qua xác minh khi thực hiện hót sạt đảm bảo giao thông tại Km319+710/QL.4H (đường Pa Tần - Mường Tè) năm 2024, Nhà thầu (Công ty Cổ phần bảo trì đường bộ 1 Lai Châu) không có cam kết đền bù hỗ trợ như cử tri phản ánh.
Đối với phần diện tích đất sản xuất và hoa mầu của hộ gia đình Lò A Tao, bản Hua Pản, xã Nậm Ban nằm trên mái taluy dương đã bị sạt lở xuống nền, mặt đường do thiên tai gây ra. Đề nghị hộ gia đình đề xuất nguyện vọng với chính quyền địa phương xem xét, hỗ trợ theo các quy định hiện hành.
Cử tri Bản Nậm Suổng, xã Vàng San, huyện Mường Tè: Nhiều hộ dân tộc Mảng trước đây đã được nhà nước hỗ trợ tôn lợp mái nhà theo Quyết định số 1672/QĐ-TTg ngày 26/9/2011 của Thủ tướng Chính phủ; đến nay nhà ở đã bị hư hỏng, xuống cấp nhưng không được hưởng chính sách hỗ trợ về nhà ở theo Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030. Cử tri đề nghị UBND tỉnh quan tâm, xem xét có chính sách hỗ trợ cho các hộ gia đình trên.
UBND tỉnh trả lời như sau:
- Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1672/QĐ-TTg ngày 26/9/2011 phê duyệt Đề án “Phát triển kinh tế-xã hội vùng các dân tộc: Mảng, Cống, La Hủ, Cờ Lao” được triển khai thực hiện trên địa bàn tỉnh Lai Châu từ năm (2013 - 2020). Nội dung hỗ trợ nhà ở được thực hiện theo nguyên tắc hỗ trợ theo Điều 3 tại Quyết định số 167/2008/QĐ-TTg ngày 12/12/2008 của Thủ tướng Chính phủ: “Nhà nước hỗ trợ, cộng đồng giúp đỡ, hộ gia đình tham gia đóng góp để xây dựng được một căn nhà có diện tích sử dụng tối thiểu 24m2; tuổi thọ căn nhà từ 10 năm trở lên”.
- Đến nay nhà ở đã bị hư hỏng, xuống cấp nhưng không được hưởng chính sách hỗ trợ về nhà ở theo Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030, lý do:
Năm 2024, các hộ thuộc dân tộc Mảng bản Nậm Suổng, xã Vàng San, huyện Mường Tè chưa đủ điều kiện để hỗ trợ (vì các hộ gia đình đã được hỗ trợ nhà ở theo Quyết định số 1672/QĐ-TTg) nhưng tuổi thọ căn nhà chưa đủ 10 năm trở lên theo quy định tại Quyết định số 167/2008/QĐ-TTg.
UBND tỉnh giao UBND huyện Mường Tè chỉ đạo các cơ quan chuyên môn có liên quan tiếp tục rà soát nếu các hộ có đủ điều kiện hỗ trợ thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030 theo Quyết định số 1719/QĐ-TTg ngày 14/10/2021 của Thủ tướng Chính phủ (giai đoạn I: từ năm 2021-2025), lập biên bản, tổng hợp, thẩm định tham mưu cho UBND huyện Mường Tè phê duyệt đối tượng hỗ trợ đảm bảo theo đúng quy định hiện hành.
Cử tri Bản Pắc Pạ, xã Vàng San, huyện Mường Tè: Một số hộ dân trong bản đã được hưởng chính sách hỗ trợ xóa nhà tạm theo Đề án 245 của Bộ Công an. Tuy nhiên hiện nay những hộ dân trên thuộc diện phải di dời khẩn cấp do thiên tai nhưng lại không thuộc đối tượng hưởng chính sách hỗ trợ di chuyển. Cử tri đề nghị UBND tỉnh quan tâm, xem xét có chính sách hỗ trợ di chuyển cho các hộ gia đình trên.
UBND tỉnh trả lời như sau:
Bản Pắc Pạ, xã Vàng San, huyện Mường Tè được xác định nằm trong khu vực có nguy cơ sạt lở cao. UBND tỉnh đã ban hành Quyết định số 1472/QĐ-UBND ngày 18/10/2024 về việc công bố tình huống khẩn cấp về thiên tai tại khu vực bản Pắc Pạ, xã Vàng San, huyện Mường Tè. Hiện nay, UBND tỉnh đang xem xét bố trí kinh phí để triển khai thực hiện. Về chính sách hỗ trợ: Đối với các hộ dân nếu thuộc đối tượng phải di chuyển khẩn cấp thì sẽ được hưởng chính sách hỗ trợ theo quy định tại Quyết định số 590/QĐ-TTg ngày 18/5/2022 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chương trình bố trí dân cư các vùng: Thiên tai, đặc biệt khó khăn, biên giới, hải đảo, di cư tự do, khu rừng đặc dụng giai đoạn 2021 - 2025, định hướng đến năm 2030 và các văn bản liên quan.
Cử tri xã Bum Tở, huyện Mường Tè: Hiện nay giáo viên được tăng lương mới với mức lương cơ sở 2.340.000đ/tháng. Tuy nhiên nhân viên hợp đồng theo Nghị định số 111/2022/NĐ-CP ngày 30/12/2022 của Chính phủ tại các trường (tạp vụ, bảo vệ...) có mức thu nhập thấp chỉ khoảng 5 triệu đồng/tháng thì không được tăng lương. Một số nhân viên hợp đồng đã nghỉ việc do lương thấp, không đảm bảo trang trải cuộc sống; đề nghị UBND tỉnh quan tâm, xem xét.
UBND tỉnh trả lời như sau:
Theo Quyết định số 30/2021/QĐ-TTg ngày 10/10/2021 của Thủ tướng Chính phủ về ban hành nguyên tắc, tiêu chí và định mức phân bổ dự toán chi thường xuyên ngân sách nhà nước năm 2022, trong đó không quy định định mức chi cho các đối tượng hợp đồng lao động theo Nghị định số 68/2000/NĐ-CP ngày 17/11/2000 và Nghị định số 161/2018/NĐ-CP ngày 19/11/2018 của Chính phủ (nay là Nghị định số 111/2022/NĐ-CP ngày 30/12/2022 của Chính phủ về hợp đồng đối với một số loại công việc trong cơ quan hành chính và đơn vị sự nghiệp công lập). Căn cứ vào tình hình thực tế và khả năng cân đối ngân sách địa phương, HĐND tỉnh đã ban hành Nghị quyết số 58/2021/NQ-HĐND ngày 10/12/2021 quy định về nguyên tắc, tiêu chí và định mức phân bổ dự toán chi thường xuyên ngân sách địa phương năm 2022 trên địa bàn tỉnh, trong đó tại Điều 13 và Điều 29 đã quy định định mức phân bổ đối với đối tượng hợp đồng lao động trong theo Nghị định số 68/2000/NĐ-CP và Nghị định số 161/2018/NĐ-CP của Chính phủ trong các đơn vị sự nghiệp là 90 triệu đồng/người/năm. Nếu tính bình quân/tháng, định mức này đang cao hơn mức lương tối thiểu vùng hiện nay được quy định tại khoản 1 Điều 3 Nghị định số 74/2024/NĐ-CP ngày 30/6/2024 của Chính phủ về mức lương tối thiểu đối với người lao động làm việc theo hợp đồng lao động.
Ngày 30/6/2024, Chính phủ ban hành Nghị định số 73/2024/NĐ-CP về quy định mức lương cơ sở và chế độ tiền thưởng đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang, trong đó mức lương cơ sở áp dụng từ ngày 01/7/2024 là 2.340.000 đồng/tháng. Tuy nhiên, Nghị định không áp dụng đối với đối tượng hợp đồng lao động theo Nghị định số 111/2022/NĐ-CP của Chính phủ. Do đó, hiện nay không có cơ sở để bổ sung kinh phí tăng lương đối với cán bộ hợp đồng tại các cơ quan, đơn vị. Căn cứ định mức phân bổ tại Nghị quyết số 58/2021/NQ-HĐND ngày 10/12/2021 của HĐND tỉnh và kinh phí đã được giao trong dự toán giao năm 2024 đề nghị các huyện thực hiện chi trả đảm bảo đúng quy định. Đồng thời, tại điểm a khoản 2 Điều 8 của Nghị định số 111/2022/NĐ-CP quy định: “Người lao động làm công việc hỗ trợ, phục vụ quy định tại khoản 1 Điều 4 Nghị định này được hưởng tiền lương và các chế độ khác theo thỏa thuận trong hợp đồng lao động”. Do đó mức lương hợp đồng/tháng có thể tăng nếu các đơn vị cân đối được nguồn hiện có để hỗ trợ.
Cử tri thị trấn Tân Uyên, huyện Tân Uyên:
Theo quy định của Nghị quyết số 15/2020/NQ-HĐND ngày 10/7/2020 của HĐND tỉnh: “Công chức, viên chức, người lao động làm việc tại Trung tâm Phục vụ hành chính công tỉnh được hưởng mức hỗ trợ 1.000.000 đồng/người/tháng. Công chức, viên chức làm việc tại bộ phận Một cửa cấp huyện được hưởng mức hỗ trợ 700.000 đồng/người/tháng. Công chức làm việc tại bộ phận Một cửa cấp xã được hưởng mức hỗ trợ 300.000 đồng/người/tháng”. Thực tế, tỷ lệ hồ sơ ở cấp xã rất nhiều. Cử tri đề nghị UBND tỉnh xem xét tăng mức hỗ trợ căn cứ theo tổng số hồ sơ tiếp nhận thực tế của từng cơ quan, đơn vị để hạn chế thiệt thòi cho những cơ quan có nhiều hồ sơ.
UBND tỉnh trả lời như sau:
Hiện tại, mức hỗ trợ đối với công chức, viên chức làm việc tại bộ phận Một cửa các cấp trên địa bàn tỉnh được thực hiện theo Nghị quyết số 15/2020/NQ-HĐND ngày 10/7/2020 của HĐND tỉnh Lai Châu về quy định chính sách hỗ trợ cho công chức, viên chức, người lao động làm việc tại Trung tâm Phục vụ hành chính công tỉnh và bộ phận một cửa cấp huyện, cấp xã trên địa bàn tỉnh. Theo đó, mức hỗ trợ đối với công chức cấp xã làm việc tại bộ phận một cửa là:
(1) Hỗ trợ một phần chi phí sinh hoạt 300.000 đồng/người/tháng (cấp tỉnh là 01 triệu đồng/người/tháng; cấp huyện là 700.000 đồng/người/tháng);
(2) Hỗ trợ may trang phục 2.000.000 đồng/người/năm (mức hỗ trợ này tương tự mức hỗ trợ đối với công chức cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã).
Mức hỗ trợ được ban hành dựa trên các quy định và điều kiện thực tiễn của địa phương (khả năng cân đối ngân sách).
Về vấn đề này, Ủy ban nhân dân tỉnh sẽ chỉ đạo các cơ quan chuyên môn xem xét, nghiên cứu kiến nghị của cử tri để đánh giá và tham mưu phù hợp điều kiện thực tế.
Đề nghị UBND tỉnh tăng tỷ lệ công chức được hưởng mức hỗ trợ tại bộ phận một cửa cấp xã, thực tế bộ phận công chức cấp xã, thị trấn đều có thủ tục hành chính, đều phải tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả nhưng chỉ được hưởng mức hỗ trợ 04 đồng chí
UBND tỉnh trả lời như sau:
Theo điểm b khoản 4 Điều 10 Nghị định số 61/2018/NĐ-CP ngày 23/4/2018 của Chính phủ về thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông trong giải quyết thủ tục hành chính, quy định “Công chức làm việc tại Bộ phận Tiếp nhận và Trả kết quả của Ủy ban nhân dân cấp xã là công chức thuộc các chức danh công chức cấp xã quy định tại Luật Cán bộ, công chức do Chủ tịch UBND cấp xã phân công căn cứ vào tình hình cụ thể tại địa phương”. Mặt khác, theo khoản 4 Điều 7 Thông tư số 01/2018/TT-VPCP của Văn phòng Chính phủ hướng dẫn thi hành một số Điều của Nghị định số 61/2018/NĐ-CP quy định về thẩm quyền phê duyệt nhân sự được cử làm việc tại Bộ phận Một cửa các cấp, quy định: “Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã phê duyệt danh sách nhân sự được cử ra thực hiện tại Bộ phận Tiếp nhận và Trả kết quả cấp xã”.
Như vậy, căn cứ các quy định nêu trên, số lượng công chức làm việc tại Bộ phận một cửa cấp xã do Chủ tịch UBND cấp xã quyết định và được hưởng chế độ, chính sách theo các quy định hiện hành.
Cử tri các huyện, thành phố: Thực hiện Nghị quyết số 21/2024/NQ-HĐND ngày 17/7/2024 của HĐND tỉnh về quy định tiêu chí thành lập tổ, tiêu chí số lượng thành viên; mức hỗ trợ, bồi dưỡng đối với lực lượng tham gia tổ bảo vệ an ninh trật tự ở cơ sở trên địa bàn tỉnh Lai Châu, có hiệu lực từ ngày 01/8/2024; nhiều xã, thị trấn trên địa bàn tỉnh đã ban hành Quyết định thành lập tổ bảo vệ an ninh trật tự ở cơ sở từ cuối tháng 7/2024. Tuy nhiên, theo Quyết định số 1380/QĐ-UBND ngày 01/10/2024 của UBND tỉnh về việc phân bổ, bổ sung kinh phí cho các đơn vị dự toán khối tỉnh và các huyện, thành phố để thực hiện chế độ, chính sách và nhiệm vụ phát sinh năm 2024 thì các huyện, thành phố chỉ được phân bổ kinh phí thực hiện Nghị quyết số 21/2024/NQ-HĐND với thời gian 4 tháng (9, 10, 11, 12). Cử tri đề nghị UBND tỉnh làm rõ trường hợp các tổ bảo vệ an ninh trật tự ở cơ sở được thành lập từ cuối tháng 7 có được hưởng hỗ trợ tháng 8/2024 không?
UBND tỉnh trả lời như sau:
Căn cứ khoản 5 Điều 14, Luật Lực lượng tham gia bảo vệ ANTT ở cơ sở và Quyết định của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định số lượng Tổ bảo vệ ANTT cần thành lập, số lượng thành viên Tổ bảo vệ ANTT tại thôn, tổ dân phố thuộc phạm vi quản lý đến từng đơn vị hành chính cấp xã, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã theo đề nghị của Công an cấp xã quyết định thành lập Tổ bảo vệ ANTT và từng thành viên Tổ bảo vệ ANTT.
Quyết định số 33/2024/QĐ-UBND ngày 19/8/2024 của UBND tỉnh về số lượng tổ bảo vệ ANTT; số lượng thành viên tổ bảo vệ ANTT tại các thôn, bản, tổ dân phố, khu phố thuộc các xã, phường, thị trấn trên địa bàn tỉnh Lai Châu có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/9/2024. Vậy sau khi có Quyết định quy định số lượng, thành viên Tổ bảo vệ ANTT của UBND tỉnh thì Chủ tịch UBND cấp xã mới ban hành Quyết định thành lập Tổ bảo vệ ANTT và từng thành viên Tổ bảo vệ ANTT. Do đó, UBND tỉnh không bố trí kinh phí chi cho thành viên tham gia Tổ bảo vệ ANTT trong tháng 8/2024.
Cử tri xã Tung Qua Lìn, huyện Phong Thổ:
Theo Quyết định số 50/2024/QĐ-UBND ngày 11/10/2024 của UBND tỉnh Lai Châu đã áp dụng hỗ trợ bồi thường cây trồng (cây thảo quả) với mức (Trồng năm 1: 32.000 đồng/1 khóm; Trồng năm 2: 38.000 đồng/khóm; giai đoạn cho thu hoạch: 85.300 đồng/kg khô). Nhưng hiện nay, áp dụng theo Quyết định số 30/2017/QĐ-UBND ngày 14/8/2017 của Ủy ban nhân dân tỉnh Lai Châu với mức hỗ trợ (mới trồng dưới 2 năm: 24.000 đồng/khóm; trồng từ 2 năm đến dưới 3 năm: 72/000 đồng/khóm; trồng từ 3 năm trở lên: 192.000 đồng/khóm) nhân dân không đồng thuận, khó khăn trong việc vận động thu hồi đất mở tuyến đường lên biên giới, đề nghị UBND tỉnh xem xét.
UBND tỉnh trả lời như sau:
Thảo quả được xác định là cây trồng lâu năm cho thu hoạch nhiều lần; chu kỳ thu hoạch ổn định khoảng 10 năm. Theo quy định tại Điều 103 Luật đất đai 2024, mức bồi thường đối với cây trồng lâu năm khi Nhà nước thu hồi đất được bồi thường theo giá trị thiệt hại thực tế của vườn cây. Cơ sở xác định đơn giá bồi thường cây thảo quả như sau:
Giai đoạn kiến thiết cơ bản (năm 1 và năm 2) đơn giá bồi thường được tính toán trên cơ sở toàn bộ chi phí giống, phân bón, công trồng, chăm sóc theo định mức kinh tế - kỹ thuật của cơ quan có thẩm quyền phê duyệt: Năm 1 tổng chi phí đầu tư cho 1 ha khoảng 53.143.960 đồng/1660 khóm = 32.000 đồng/1 khóm; năm thứ 2 tổng chi phí đầu tư (năm 1+2) là 63.828.920 đồng/1660 khóm = 38.000 đồng/khóm là phù hợp theo giá trị thiệt hại thực tế.
Giai đoạn cho thu hoạch (được tính từ năm thứ 3 trở đi): Mức bồi thường ở giai đoạn này là sản lượng còn chưa thu hoạch tương ứng với số năm còn lại trong chu kỳ, nhân với đơn giá 85.300 đồng/kg (là giá bán sản phẩm đã trừ chi phí đầu tư).
Ví dụ: Tại thời điểm bồi thường, nhà ông Nguyễn Văn A có 01 ha thảo quả đã trồng được 5 năm, trong đó đã thu hoạch được 2 năm, như vậy chu kỳ thu hoạch còn lại là 8 năm. Theo số liệu điều tra năm 2023, năng suất thảo quả khoảng 500 kg quả khô/ha, với mật độ trồng theo quy định là 1.660 khóm/ha, thì năng suất trung bình là 0,3 kg quả khô/khóm. Mức bồi thường cho 01 ha thảo quả là: 500kg x 8 năm x 85.300 đ/kg = 341.200.000 đồng/ha; tính theo khóm = 0,3 kg/khóm x 8 năm x 85.300 đồng/kg = 204.720 đồng/khóm.
Trong trường hợp vườn thảo quả hết chu kỳ nhưng vẫn cho thu hoạch thì vẫn được bồi thường = sản lượng thực tế x giá tại thời điểm bồi thường.
Ví dụ: Sản lượng thực tế ước đạt 500 kg/ha, với giá bán trung bình khoảng 120.000 đồng/kg, thì mức bồi thường = 500 kg x 120.000 đồng = 60.000.000 đồng/ha.
Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành Quyết định số 50/2024/QĐ-UBND ngày 11/10/2024 quy định đơn giá bồi thường thiệt hại về cây trồng, vật nuôi và hỗ trợ di dời vật nuôi khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Lai Châu đã đảm bảo theo đúng quy định của Luật Đất đai năm 2024 và phù hợp với thực tế. Các huyện, thành phố cần tiếp tục tuyên truyền để người dân hiểu và chỉ đạo để tính toán phương án bồi thường đảm bảo đúng theo quy định.
Cử tri kiến nghị tỉnh có ý kiến với Trung ương xem xét, sửa đổi một số tiêu chí theo Quyết định 1300/QĐ-BYT ngày 09/3/2023 của Bộ Y tế để phù hợp với điều kiện kinh tế của từng địa phương, vùng miền (Tại tiêu chí 3: Cơ sở hạ tầng TYT xã mục 14 quy định Công trình chính của TYT xã được xếp hạng từ cấp III trở lên).
UBND tỉnh trả lời như sau:
Tại Quyết định số 1300/QĐ-BYT ngày 09/3/2023 của Bộ Y tế ban hành Bộ tiêu chí quốc gia về y tế xã giai đoạn đến năm 2030 quy định: Xã được công nhận đạt tiêu chí quốc gia về y tế nếu đáp ứng đầy đủ các yêu cầu: Đạt từ 80/100 điểm trở lên; số điểm trong mỗi tiêu chí phải đạt từ 50% số điểm của tiêu chí đó trở lên; không bị “điểm liệt”. Tại tiêu chí 3: Cơ sở hạ tầng trạm y tế xã mục 14 quy định Công trình chính của trạm y tế xã được xếp hạng từ cấp III trở lên; Chỉ tiêu này chỉ chiếm 2/100 thang điểm, trường hợp “Khối nhà chính dột nát, xuống cấp nghiêm trọng thì không đạt Tiêu chí”.
Thực tế hiện nay trên địa bàn toàn tỉnh có 106 trạm y tế xã, phường, thị trấn (Trong đó 59 trạm y tế có công trình chính là công trình cấp IV, 47 trạm y tế là công trình cấp III). Tuy nhiên đến hết năm 2024, dự kiến có 97/106 trạm y tế xã, phường, thị trấn được công nhận đạt tiêu chí quốc gia về y tế (trong đó có 50 trạm y tế có công trình chính là công trình cấp IV). Như vậy, chỉ tiêu số 14 tại Tiêu chí 3 vừa là chỉ tiêu chấm điểm, cũng là chỉ tiêu định hướng để đầu tư, phát triển cơ sở hạ tầng cho trạm y tế, nhằm đảm bảo tính bền vững, kiên cố hoá, tiết kiệm diện tích đất và đáp ứng tốt nhất nhu cầu chăm sóc sức khoẻ cho Nhân dân. Cho nên chỉ tiêu tại mục 14 thuộc Tiêu chí 3 theo Quyết định 1300/QĐ-BYT ngày 09/3/2023 của Bộ Y tế là phù hợp.
Cử tri thị trấn Tân Uyên, huyện Tân Uyên: Theo Quy định số 18-QĐ/TU ngày 15/11/2023 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về kiểm điểm và đánh giá, xếp loại chất lượng hằng năm đối với tập thể, cá nhân trong hệ thống chính trị. Theo đó: Tại khoản 1.4 trang 23 quy định, tính tỷ lệ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ cuối năm không vượt quá 20% số được xếp loại. Trên thực tế UBND thị trấn được giao biên chế năm 2024 là 25 cán bộ, công chức, nhưng số cán bộ, công chức đến thời điểm cuối năm có mặt chỉ có 20 đồng chí (đối với công chức chỉ có 9/13 công chức). Như vậy khi đánh giá, xét xếp loại cuối năm chỉ được 01 đồng chí rất thiệt thòi cho công chức. Trong khi đó, UBND thị trấn thiếu biên chế và các công chức khác phải thực hiện nhiệm vụ kiêm nhiệm, không đúng nhiệm vụ chuyên môn cũng không được hưởng phụ cấp nhưng vẫn cố gắng hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, để hạn chế thiệt thòi cho cán bộ, công chức thị trấn. Đề nghị UBND tỉnh xem xét không tính tỉ lệ % xuất sắc chia tổng số được xếp loại, mà tính tỷ lệ trên tổng biên chế được giao của cơ quan đơn vị.
UBND tỉnh trả lời như sau:
Tại khoản 1 Điều 1 Nghị định số 48/2023/NĐ-CP ngày 17/7/2023 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 90/2020/NĐ-CP ngày 13/8/2020 về đánh giá, xếp loại chất lượng cán bộ, công chức, viên chức quy định: “Tỷ lệ cán bộ, công chức, viên chức xếp loại “Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ” trong tổng số cán bộ, công chức, viên chức tại cùng cơ quan, tổ chức, đơn vị và đối với từng nhóm đối tượng có nhiệm vụ tương đồng không quá tỷ lệ đảng viên được xếp loại “Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ” theo quy định của Đảng. Trường hợp cơ quan, tổ chức, đơn vị có thành tích xuất sắc, nổi trội, hoàn thành vượt kế hoạch các công việc được giao, hoàn thành tốt các công việc đột xuất, có đề xuất hoặc tổ chức thực hiện đổi mới sáng tạo, tạo sự chuyển biến tích cực, mang lại giá trị, hiệu quả thiết thực thì cấp có thẩm quyền quyết định tỷ lệ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ phù hợp với thực tế, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của cán bộ, công chức, viên chức”.
Tại điểm 1.4 khoản 1 Điều 12 Quy định số 124-QĐ/TW ngày 04/10/2023 của Bộ Chính trị về việc kiểm điểm và đánh giá xếp loại chất lượng hằng năm đối với tập thể, cá nhân trong hệ thống chính trị quy định: “Cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định số lượng tập thể, cá nhân được xếp loại “Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ” không vượt quá 20% số được xếp loại “Hoàn thành tốt nhiệm vụ” theo từng nhóm đối tượng có vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ tương đồng”.
Tại điểm 1.4 khoản 1 Điều 12 Quy định số 18-QĐ/TU ngày 15/11/2023 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy quy định: “Cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định số lượng tập thể, cá nhân được xếp loại “Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ” không vượt quá 20% số được xếp loại “Hoàn thành tốt nhiệm vụ” theo từng nhóm đối tượng có vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ tương đồng”.
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện một số nội dung còn bấp cập, UBND tỉnh đã kiến nghị với cấp có thẩm quyền xem xét điều chỉnh cho phù hợp. Trên cơ sở các quy định, trước mắt đề nghị UBND thị trấn Tân Uyên tiếp tục thực hiện đánh giá xếp loại chất lượng công chức “Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ” đảm bảo tỷ lệ theo đúng quy định nêu trên.
Cử tri xã Hố Mít, huyện Tân Uyên: Đề nghị các cấp có thẩm quyền xem xét điều chỉnh định mức tiết dạy của giáo viên THCS giống định mức giáo viên THPT với định mức 17 tiết.
UBND tỉnh trả lời như sau:
Ngày 25/6/2024, Bộ Giáo dục và Đào tạo có Công văn số 3124/BGDĐT-NGCBQLGD xin ý kiến góp ý đối với dự thảo Thông tư quy định chế độ làm việc đối với giáo viên phổ thông, dự bị đại học. Sau khi nghiên cứu dự thảo, UBND tỉnh đã có Công văn số 2771/UBND-VX ngày 17/7/2024 góp ý đối với dự thảo Thông tư nêu trên, trong đó đã có đề nghị quy định định mức tiết dạy đối với giáo viên THCS và giáo THPT là 17 tiết/tuần. Hiện tại Thông tư nêu trên chưa được Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành.
LĨNH VỰC KHÁC
Cử tri xã Pa Vây Sử, huyện Phong Thổ: Cấp tỉnh và các sở ban ngành tỉnh sắp xếp kế hoạch mở các lớp tập huấn không dồn vào thời gian cuối năm, tránh ảnh hưởng đến tiến độ giải quyết công việc cuối năm của các địa phương.
UBND tỉnh trả lời như sau:
UBND tỉnh đã chỉ đạo các sở ban ngành tỉnh sắp xếp kế hoạch mở các lớp tập huấn không dồn vào thời gian cuối năm, tránh ảnh hưởng đến tiến độ giải quyết công việc của các địa phương.
Cử tri Tổ dân phố số 23, phường Đông Phong, thành phố Lai Châu: Căn cứ quy định tại Điểm b, Khoản 1, Điều 2, Nghị quyết số 21/2024/NQ-HĐND, ngày 17/7/2024, quy định: “Tổ bảo vệ an ninh, trật tự ở tổ dân phố, khu phố có quy mô dưới 400 hộ gia đình bố trí 03 thành viên; từ 400 hộ gia đình đến dưới 500 hộ gia đình bố trí 04 thành viên; từ 500 hộ gia đình trở lên bố trí 05 thành viên”. Tại Quyết định số 33/2024/QĐ-UBND ngày 19/8/2024 của UBND tỉnh, Phường Đông Phong có 8 tổ bảo vệ an ninh, trật tự với tổng số thành viên là 24, tương ứng với 3 người/tổ. Trong khi thực tế, Tổ dân phố 23 và Tổ dân phố 28 đều có số hộ trên 400 hộ. Cử tri đề nghị UBND tỉnh xem xét tăng số lượng thành viên tổ bảo vệ dân phố tại phường Đông Phong để đảm bảo đúng quy định Nghị quyết số 21/2024/NQ-HĐND của HĐND tỉnh.
UBND tỉnh trả lời như sau:
Thực hiện Nghị quyết số 21/2024/NQ-HĐND ngày 17/7/2024 của HĐND tỉnh Lai Châu, UBND tỉnh ban hành Công văn số 2920/UBND-TH ngày 26/7/2024 về việc rà soát số nhân khẩu thường trú, tạm trú tại các thôn, bản, tổ dân phố, khu phố trên địa bàn.
Ngày 05/8/2024, UBND thành phố ban hành Công văn số 2716/UBND-CA về việc báo cáo kết quả rà soát, thống kê số liệu tổ dân phố, bản trên địa bàn thành phố Lai Châu. Tổ dân phố số 23 có 344 hộ thường trú và 68 hộ tạm trú; Tổ dân phố số 28 có 370 hộ thường trú và 36 hộ tạm trú. Đối chiếu với Nghị quyết số 21/2024/NQ-HĐND ngày 17/7/2024 thì Tổ dân phố số 23 và Tổ dân phố số 28 phường Đông Phong, thành phố Lai Châu bố trí số lượng 03 thành viên/tổ là đảm bảo đúng quy định.
Đối với ý kiến cử tri đề nghị xem xét tăng số lượng thành viên tổ bảo vệ ANTT tại phường Đông Phong. Ngày 20/8/2024, UBND tỉnh đã ban hành Công văn số 3323/UBND-TH về triển khai thực hiện Nghị quyết số 21/2024/NQ-HĐND của HĐND tỉnh có giao UBND các huyện thành phố hàng năm rà soát số lượng Tổ bảo vệ ANTT ở cơ sở, số lượng thành viên Tổ bảo vệ ANTT ở cơ sở báo cáo gửi về Công an tỉnh để tổng hợp để báo cáo UBND tỉnh xem xét điều chỉnh Quyết định số 33/2024/QĐ-UBND của UBND tỉnh.
Nguồn: https://baolaichau.vn/ch%C3%ADnh-tr%E1%BB%8B/k%E1%BA%BFt-qu%E1%BA%A3-gi%E1%BA%A3i-quy%E1%BA%BFt-ki%E1%BA%BFn-ngh%E1%BB%8B-c%E1%BB%A7a-c%E1%BB%AD-tri-tr%C6%B0%E1%BB%9Bc-k%E1%BB%B3-h%E1%BB%8Dp-th%E1%BB%A9-hai-m%C6%B0%C6%A1i-l%C4%83m-h%C4%91nd-t%E1%BB%89nh-kh%C3%B3a-xv-nhi%E1%BB%87m-k%E1%BB%B3-2021-2026
Bình luận (0)