Hệ thống hạ tầng kỹ thuật nói chung và thoát nước nói riêng của các đô thị trên cả nước không theo kịp tốc độ đô thị hóa; các hệ thống thoát nước mưa, thu gom và xử lý nước thải sinh hoạt của người dân... là nguyên nhân căn bản dẫn tới tình trạng trên.
Nhiều vướng mắc cố hữu
Nhìn chung, phần lớn hệ thống thoát nước đô thị vẫn là hệ thống cũ, hình thành từ lâu, cho nên khả năng thoát nước không đồng đều. Gần đây, các dự án khu đô thị mới, phát triển nhà ở tại một số địa phương được quy hoạch và xây dựng đồng bộ; hệ thống thoát nước mưa được tách riêng khỏi hệ thống thu gom nước thải sinh hoạt, nhưng việc phân tách riêng còn nhỏ trong phạm vi dự án, chưa mở rộng ra toàn bộ đô thị cho nên hiệu quả thoát nước còn hạn chế.
Tính đến cuối năm 2024, trên cả nước có 83 nhà máy xử lý nước thải đô thị đang vận hành tại hơn 50 đô thị, tổng công suất thiết kế hơn 2 triệu m3/ngày, nhưng công suất thực tế mới đạt khoảng 1,1 triệu m3/ngày. Nhiều nhà máy xử lý nước thải tập trung không đạt công suất thiết kế do tỷ lệ đấu nối thoát nước từ các hộ gia đình còn thấp hoặc mạng lưới thu gom chưa được đầu tư đồng bộ (trung bình vận hành khoảng hơn 50% công suất thiết kế).
Mặc dù tỷ lệ bao phủ của đường cống thoát nước khá cao (khu vực đô thị đạt khoảng 90%), nhưng tỷ lệ nước thải sinh hoạt được thu gom về nhà máy, xử lý đạt tiêu chuẩn xả thải ra môi trường mới đạt 18% so với tổng lượng nước thải. Hiện nay, có 2 mô hình tổ chức quản lý thoát nước tại cấp địa phương, gồm mô hình quản lý tập trung và phân cấp. Việc này sẽ gây khó khăn khi mô hình chính quyền địa phương hai cấp hoạt động, năng lực quản lý của Ủy ban nhân dân cấp xã không đạt đối với các dự án xử lý nước thải quy mô lớn. Cùng với đó, tỷ lệ đường cống thoát nước trên đầu người tại Việt Nam còn thấp, trung bình đạt hơn 1m/người, chỉ bằng khoảng một nửa so với trung bình thế giới (2m/người),…
Cục trưởng Kết cấu hạ tầng xây dựng (Bộ Xây dựng) Tạ Quang Vinh đánh giá, ngoài những vướng mắc cố hữu chưa được giải quyết, nguồn vốn đầu tư xây dựng hệ thống thoát nước theo quy hoạch không đáp ứng được nhu cầu của các địa phương (đến năm 2030 khoảng 300.000 tỷ đồng). Giá dịch vụ thoát nước còn thấp, trước đây mới chỉ có 25 địa phương (khi chưa sáp nhập) ban hành giá theo 4 mức khác nhau, dao động từ 700 đồng/m3 đến 2.600 đồng/m3 và chủ yếu vẫn áp dụng thu phí bảo vệ môi trường đối với nước thải.
Quá trình phát triển đô thị, dân cư tập trung đông cùng tác động của biến đổi khí hậu, thời tiết cực đoan,... khiến hệ thống thoát nước cũ bị quá tải. Nhà nước không đủ nguồn lực đầu tư cho tất cả nhà máy xử lý nước thải và mạng lưới đường ống thu gom, trong khi mạng đường ống tại các đô thị đã xuống cấp, hư hỏng.
Lĩnh vực thoát nước và xử lý nước thải là cung ứng dịch vụ công ích do Nhà nước đầu tư và quản lý, khu vực tư nhân muốn đầu tư hay Nhà nước chuyển giao lại không thể thực hiện được do vướng mắc về quy định pháp luật. Việc các địa phương không được lập quy hoạch chuyên ngành thoát nước (trừ các thành phố trực thuộc Trung ương) cũng gây khó khăn cho việc đề xuất và lập dự án đầu tư xây dựng công trình thoát nước…
Xây dựng các giải pháp đồng bộ
Các chuyên gia đánh giá, quy hoạch chung về phát triển đô thị đã đề cập giải pháp chống ngập úng, tuy nhiên, khâu tổ chức thực hiện vẫn gặp nhiều vướng mắc và cần xuất phát từ thực tế để có kế hoạch đầu tư phù hợp. Giáo sư, Tiến sĩ Đào Xuân Học, Chủ tịch Hội Thủy lợi Việt Nam cho biết, vướng mắc hiện nay chủ yếu nằm ở khâu tiêu nước (thu gom từ hệ thống cống rãnh ra sông để về các trạm bơm). Chẳng hạn như Hà Nội, công suất được phê duyệt cho các trạm bơm là 504 m3/giây, nhưng hiện nay đầu tư còn quá chậm, chưa hoàn thành, thậm chí có trạm bơm đã hoàn thành nhưng không có nguồn nước thải để xử lý.
Đối với các địa phương gặp tình trạng ngập úng do nước sông dâng, triều dâng, các ngành liên quan cần phối hợp chặt chẽ trong việc rà soát, quy hoạch lại mạng lưới sông ngòi để phát huy tốt nhất hiệu quả tiêu thoát lũ, ngập úng. Các điểm ngập úng cục bộ có thể áp dụng phương pháp linh hoạt như sử dụng bể ngầm lắp ghép, tận dụng không gian tại các công trình để chứa nước mưa, nước thải, góp phần giảm thiểu tác động của ngập úng.
Theo Cục trưởng Tạ Quang Vinh, trên cơ sở đánh giá hiện trạng thực tiễn hệ thống thoát nước của cả nước cũng như việc rà soát văn bản quy phạm pháp luật và đánh giá công tác quản lý nhà nước cho thấy, việc hoàn thiện văn bản quy phạm pháp luật là hết sức cần thiết, đặc biệt hiện nay chưa có một văn bản luật chuyên ngành thống nhất điều chỉnh hoạt động trong lĩnh vực thoát nước, gồm: Thoát nước mưa, thu gom và xử lý nước thải, bùn thải, phòng chống ngập úng, ứng phó biến đổi khí hậu,…
Do đó, việc xây dựng luật chuyên ngành về lĩnh vực cấp, thoát nước là một trong những giải pháp then chốt để quản lý tổng thể, giải quyết các vấn đề còn tồn tại, nhất là cơ chế đầu tư để thu hút các nguồn lực xây dựng hệ thống thoát nước. Dự kiến, Bộ Xây dựng sẽ chỉnh lý, hoàn thiện dự án Luật Cấp, thoát nước trình Chính phủ năm 2026 và trình Quốc hội sớm phê chuẩn, ban hành.
Các chuyên gia kiến nghị, trong khi chờ thông qua luật, các địa phương cần thúc đẩy ngay việc chuyển đổi thu phí bảo vệ môi trường đối với nước thải thành thu giá dịch vụ thoát nước; xử lý nước thải và xây dựng lộ trình tăng giá dịch vụ thoát nước, xử lý nước; bổ sung nguồn ngân sách cho địa phương trong việc tái đầu tư các dự án thoát nước và xử lý nước thải,… Cơ quan chức năng cần mạnh dạn nghiên cứu, ban hành Chương trình chống ngập đô thị, tương tự Chương trình phát triển nhà ở xã hội để có chính sách phù hợp, sớm giải quyết tình trạng này.
Cùng với đó, cần xây dựng cơ chế đặc thù cho các địa phương trong đầu tư công trình chống ngập đô thị; xây dựng cơ sở dữ liệu về ngập úng đô thị; thí điểm vận hành cơ chế PPP trong thu hút, huy động vốn đầu tư tư nhân tham gia các dự án thoát nước và xử lý nước thải, bảo đảm hiệu quả tài chính dự án, đủ sức hấp dẫn các nhà đầu tư và tổ chức tín dụng.
Nguồn: https://baolaocai.vn/khac-phuc-tinh-trang-ngap-ung-do-thi-post886664.html






Bình luận (0)