TIẾNG NÓI CỦA VĂN HÓA, LỊCH SỬ VÀ TÂM HỒN NGƯỜI DÂN
Từ những làn điệu đờn ca tài tử mộc mạc vang lên giữa miền sông nước, cải lương đã hình thành và lớn lên như một món quà tinh thần đặc sắc của người dân Nam bộ.
Giáo sư Trần Văn Khê trong bài viết “Cải lương, nghệ thuật sân khấu truyền thống Nam bộ Việt Nam” cho rằng: “Cải lương là sửa đổi cho trở nên tốt hơn”, thể hiện trong cả nội dung kịch bản, nghệ thuật biểu diễn, dàn nhạc lẫn các bài bản.
Từ đó, cải lương được biết đến như một loại hình nghệ thuật tổng hợp giữa âm nhạc, kịch và múa; không chỉ kể lại những câu chuyện thấm đẫm tình đời, mà còn cất lên tiếng nói của văn hóa, lịch sử và tâm hồn người dân.
|
Thời gian qua, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Đồng Tháp đã tổ chức chương trình biểu diễn miễn phí định kỳ “Dạ khúc tri âm” tại Rạp hát Thầy Năm Tú, giới thiệu những trích đoạn và vở cải lương nổi tiếng, kinh điển như: Đời cô Lựu, Tô Ánh Nguyệt, Lan và Điệp; các vở cải lương gắn liền với các sự kiện lịch sử như: Cánh đồng Ấp Bắc; Huyền sử Rạch Gầm… nhằm phục vụ khán giả mộ điệu. Đây không chỉ là hoạt động giữ gìn giá trị nghệ thuật cải lương, mà còn tạo cơ hội để công chúng; đặc biệt là thế hệ trẻ, tiếp cận và trải nghiệm cải lương trực tiếp, góp phần làm sống lại sức hấp dẫn và lan tỏa của loại hình nghệ thuật truyền thống này. |
Mỗi vở diễn, mỗi nhân vật bước lên sân khấu là một mảnh ghép của đời sống, phản chiếu khát vọng, nỗi niềm, bản lĩnh, tinh thần yêu nước và ý chí đấu tranh chống giặc ngoại xâm của người dân Nam bộ nói riêng và người Việt Nam nói chung.
Chính chiều sâu ấy đã giúp cải lương vượt lên khỏi khuôn khổ của một loại hình giải trí, trở thành di sản văn hóa sống động, tồn tại bền bỉ trong tâm khảm mỗi người.
Tại Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang trước đây, vùng đất vốn được xem là “cái nôi” của nghệ thuật cải lương. Nơi đây gắn liền với những tên tuổi nghệ sĩ nổi tiếng như: Cố đệ nhất danh ca cải lương Năm Phỉ (Lê Thị Phỉ), cố Nghệ sĩ Nhân dân Trần Hữu Trang, cố Nghệ sĩ Nhân dân Phùng Há (Trương Phụng Hảo) và nhiều nghệ sĩ khác…
Dấu ấn không thể không nhắc đến là Rạp hát Thầy Năm Tú (Châu Văn Tú) - rạp cải lương chuyên nghiệp đầu tiên của Việt Nam, được thành lập năm 1918. Ông Năm Tú đã xây dựng Rạp hát Thầy Năm Tú tại chợ Mỹ Tho, đây cũng là rạp hát cải lương đầu tiên của nước ta, với trang thiết bị hiện đại thời bấy giờ.
Rạp hát được thiết kế theo kiểu sân khấu mới, có 3 hạng ghế: 1, 2, 3; cùng các phòng đặc biệt dành cho quan khách.
Đặc biệt, tối 15-3-1918, tại chính rạp hát này, khán giả Nam kỳ lần đầu được xem một vở cải lương đầu tiên có tên là Kim Vân Kiều (có tài liệu viết vở Lục Vân Tiên) do ông Trương Duy Toản viết kịch bản.
Đây là vở cải lương đánh dấu bước khởi đầu quan trọng cho sự ra đời của nền nghệ thuật cải lương Việt Nam.
Bên cạnh việc xây dựng rạp và lập đoàn, Thầy Năm Tú còn nhập linh kiện về để lắp ráp và phổ biến máy hát dĩa hiệu Pathé phono. Để phân biệt với máy hát của Pháp, ông in nhãn hiệu con chó trên máy, còn trên đĩa hát thì in hình con gà trống đỏ.
Tùy theo từng phân khúc thị trường, ông phát hành các dòng nhạc riêng. Nhờ vậy, nhiều người bình dân đã thuộc lòng các điệu lý, câu ca, từ những bài vắn như “Tứ đại oán”, “Lưu thủy trường”, “Xàng xê” đến những bài ca cổ nhịp 8, nhịp 16, góp phần lan tỏa và bảo tồn nghệ thuật cải lương trong đời sống cộng đồng.
GIỮ HỒN DI SẢN
Trong đời sống văn hóa nghệ thuật Việt Nam, cải lương giữ vị trí đặc biệt như một loại hình sân khấu độc đáo, khắc họa đậm nét bản sắc Nam bộ, góp phần làm phong phú kho tàng nghệ thuật dân tộc.
Trước những biến động của thời đại, việc giữ gìn và phát huy giá trị cải lương trở thành yêu cầu cấp thiết để loại hình nghệ thuật truyền thống này tiếp tục lan tỏa trong đời sống tinh thần của người Việt.
Tiến sĩ Võ Văn Sơn, giảng viên chuyên ngành Du lịch và Văn hóa học, Trường Đại học Tiền Giang nhấn mạnh: “Bảo tồn cải lương trước hết phải giữ gìn các giá trị cốt lõi của loại hình nghệ thuật này.
Đồng thời, cần đào tạo và phát triển nguồn nhân lực, gồm nghệ sĩ, diễn viên, soạn giả; đổi mới nội dung và hình thức biểu diễn để phù hợp với thị hiếu hiện đại; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ số để tiếp cận khán giả rộng rãi hơn.
Việc hỗ trợ các câu lạc bộ và đoàn nghệ thuật địa phương duy trì không gian sinh hoạt sẽ tạo điều kiện cho nghệ nhân truyền nghề cho lớp trẻ, giúp cải lương tiếp tục phát triển bền vững. Bên cạnh đó, các nhà quản lý văn hóa cần đóng vai trò định hướng, kết nối và tạo môi trường thuận lợi để di sản cải lương phát triển”.
Anh Phạm Thế Hiển, ngụ tại phường Cao Lãnh chia sẻ: “Từ nhỏ, tôi đã say mê cải lương qua ti vi và radio và niềm yêu thích này theo tôi đến tận hôm nay. Trước sức ảnh hưởng của văn hóa nước ngoài, để cải lương tiếp tục lan tỏa, đặc biệt đến giới trẻ, nội dung các vở cải lương cần được cách tân, kết hợp hài hòa giữa yếu tố cổ điển và hiện đại; đồng thời, phù hợp với thị hiếu khán giả”.
Còn chị Trần Thị Lan, ngụ tại phường Mỹ Tho chia sẻ: “Với tôi, cải lương không chỉ là nghệ thuật giải trí, mà còn là ký ức, là cảm xúc gắn liền với văn hóa Nam bộ.
Để loại hình này tiếp cận được giới trẻ, cần có sự đổi mới trong cách trình diễn, kết hợp yếu tố hiện đại mà vẫn giữ được tinh hoa truyền thống, để khán giả cảm nhận và yêu thích một cách tự nhiên”.
“Để cải lương trở nên gần gũi và hấp dẫn với giới trẻ, việc đổi mới hình thức tiếp cận là hết sức cần thiết. Các trích đoạn kinh điển có thể được rút gọn, tăng tính thị giác, kết hợp công nghệ âm thanh - ánh sáng hiện đại để phù hợp với thẩm mỹ của khán giả trẻ.
Đồng thời, việc phát triển nội dung trên nền tảng số như: Video ngắn, podcast hậu trường, talkshow với nghệ sĩ; các sân chơi cover bài vọng cổ theo phong cách mới… sẽ giúp loại hình này lan tỏa mạnh mẽ hơn.
Những hoạt động trải nghiệm trực tiếp như: Giao lưu với nghệ nhân; chương trình biểu diễn tại không gian mở… góp phần giúp cải lương trở thành một phần sinh động trong đời sống văn hóa đương đại, thay vì chỉ là ký ức của quá khứ” - Tiến sĩ Võ Văn Sơn cho biết thêm.
LÊ NGUYÊN
Nguồn: https://baodongthap.vn/-lam-moi-cai-luong-de-giu-hon-di-san-a233905.html










Bình luận (0)