
Nghệ nhân Đỗ Thị Tuyến. Ảnh: MH
Khi “phái yếu” làm việc của “phái mạnh”
Từ bao đời nay, nhắc đến Kiến Hưng (Hà Nội), không thể không nhắc đến làng nghề rèn Đa Sỹ đã có lịch sử hơn 500 năm với những đôi bàn tay chai sần của người thợ miệt mài “tôi luyện” từng đường dao, lưỡi kéo.
Theo Hiệp hội Làng nghề Đa Sỹ, hiện cả làng có hơn 1.000 hộ theo nghề rèn, tất cả các lò đều có phụ nữ làm. Năm 2018, làng có 12 người được Hiệp hội Làng nghề Việt Nam phong danh hiệu nghệ nhân, trong đó có 11 nam và 1 nữ.
Người phụ nữ đầu tiên và duy nhất của làng được phong danh hiệu nghệ nhân là bà Đỗ Thị Tuyến. Sinh ra, lớn lên giữa làng rèn truyền thống, từ ấu thơ, nghệ nhân Đỗ Thị Tuyến (sinh năm 1966) đã quen tai với âm thanh của đe, búa chan chát suốt ngày đêm.
Năm lên 12 tuổi, cô bé Tuyến bắt đầu đến những cơ sở rèn trong làng xin làm phụ những việc vặt như cắt thép, lấy nước... để học nghề.
Nhờ cần cù, chịu khó, tháo vát, cô bé Tuyến đen nhẻm năm xưa đã trở thành một thợ rèn chuyên nghiệp với tay nghề “siêu hạng” suốt hơn 30 năm qua. Những sản phẩm dao chặt, dao mổ, dao thái… qua “bàn tay vàng” của nghệ nhân Đỗ Thị Tuyến đều trở nên tinh xảo, sắc ngọt, bền chắc. Không chỉ trong làng, nhiều người ở tỉnh xa truyền tai nhau đến tận nhà bà mua hàng, đặt hàng mang đi tiêu thụ ở khắp trong Nam, ngoài Bắc.
"Nam giới làm nghề rèn thì có sức khỏe hơn phụ nữ. Phụ nữ nói chung chân yếu tay mềm thì đúng ra chỉ hợp làm công việc hỗ trợ rèn. Thực tế, ở làng Đa Sỹ cũng có nhiều phụ nữ làm nghề rèn, nhưng chỉ làm công việc hỗ trợ. Còn tôi, vì yêu nghề, muốn giữ nghề, theo được nghề truyền thống của gia đình, nên tôi đã thực hiện công việc rèn từ những công đoạn ban đầu cho đến khi hoàn thiện sản phẩm”, bà Tuyến chia sẻ.
Nghề rèn rất độc hại, nếu rèn máy ảnh hưởng đến tai, khí bụi ảnh hưởng đến phổi, các vẩy bắn ra có thể gây bỏng và để lại sẹo. Là phụ nữ nhưng cánh tay của bà Tuyến chi chít vết sẹo do làm nghề rèn, chuyện bị bỏng là không thể tránh khỏi. Nhiều khi nhìn những vết bỏng, bà Tuyến lại nhớ những lần bị bỏng, có lần bỏng nặng phải nghỉ hàng tuần. Nghỉ được mấy hôm, bà lại nhớ nghề, vết thương chưa lành nhưng đã tiếp tục công việc.
Mỗi ngày, bà bắt đầu làm việc từ tờ mờ sáng đến tối muộn, cho ra lò khoảng 20 con dao - những sản phẩm bền, sắc, được tin dùng ở khắp nơi. “Tôi tự hào vì vẫn lao động mỗi ngày, làm ra sản phẩm chất lượng. Tôi mong con cháu nhớ đến tôi như một người phụ nữ giỏi nghề, làm được điều mà nhiều người nghĩ phụ nữ không thể làm. Đó là niềm vinh dự lớn nhất đời tôi”, bà Tuyến nói.
Tâm sự về việc giữ gìn, truyền nghề và tiếp nối nghề ông cha của thế hệ trẻ hôm nay, nghệ nhân Đỗ Thị Tuyến chia sẻ, với quá trình đô thị hóa, người trẻ có nhiều cơ hội tìm việc làm. Tuy nhiên, bà vẫn nỗ lực duy trì nghề này - cái nghề giúp nhiều người dân nơi đây có công ăn việc làm, từ nghèo khó đi lên, có cuộc sống ổn định.
Nhờ những đóng góp không ngừng nghỉ trong phát triển nghề rèn Đa Sỹ truyền thống, năm 2024, nghệ nhân Đỗ Thị Tuyến được UBND thành phố Hà Nội tặng danh hiệu “Nghệ nhân Hà Nội”. Đây không chỉ vinh dự cho bà, mà còn là động lực cho gia đình nói riêng và làng nghề rèn Đa Sỹ nói chung tiếp tục “đỏ lửa” giữ nghề truyền thống.
Theo xu thế công nghệ, trong những năm qua, gia đình bà Tuyến đã đầu tư máy móc vào sản xuất, giúp giảm công lao động và làm được nhiều sản phẩm hơn, giá thành sản phẩm cũng cạnh tranh hơn, từ đó, công việc của người lao động được cải thiện hơn so với trước. "May mắn là con tôi có nguyện vọng nối nghiệp nghề rèn nên chúng tôi đã chủ động đào tạo, truyền nghề cho con cháu trong gia đình", bà Tuyến tâm sự.

Đinh Công Thanh (giữa) đón du khách nước ngoài đến tham quan, trải nghiệm tại cơ sở sản xuất. Ảnh: MH
Năng động, sáng tạo từ “lửa nghề” gia truyền
Người con của nghệ nhân Đỗ Thị Tuyến là Đinh Công Thanh (sinh năm 1992) đã quyết định nối nghiệp mẹ. Sinh ra và lớn lên trong một gia đình làm nghề rèn truyền thống, ngay từ nhỏ, anh đã quen với tiếng búa, tiếng đe vang lên đều đặn mỗi sáng. Tình yêu với nghề được nuôi dưỡng từ những điều giản dị, từ “mùi khói” của lò than, từ những buổi theo bố mẹ ra xưởng, từ việc tận tay mài những chiếc dao đầu tiên...
Nhưng không giống thế hệ trước, anh Thanh chọn cho mình con đường riêng khi làm dao thủ công theo phong cách hiện đại, tinh xảo và mang tính thẩm mỹ cao, đồng thời, xây dựng câu chuyện thương hiệu để thu hút du khách, tạo nên một hướng đi mới cho làng nghề.
Ngày nay, sản phẩm bị cạnh tranh bởi hàng công nghiệp, nhiều thanh niên bỏ nghề để tìm công việc khác ổn định hơn và làng nghề dần vắng bóng người trẻ kế tục. Trăn trở với điều đó, anh Thanh quyết tâm tìm cho nghề một hướng đi mới: Không chỉ làm nghề theo cách cũ, mà phải đưa nghề lên một tầm cao mới, nâng giá trị sản phẩm thủ công bằng sự sáng tạo và tinh thần đổi mới.
Những ngày đầu bắt tay xây dựng mô hình, anh gặp không ít khó khăn. Thị trường cạnh tranh khốc liệt, chi phí nguyên, vật liệu tăng, trong khi sản phẩm dao truyền thống lại dễ bị đánh đồng với hàng công nghiệp. Tuy nhiên, với quyết tâm làm sản phẩm bằng “cái tâm của người thợ”, anh Thanh dành nhiều tháng trời để mày mò kỹ thuật, học hỏi cách tạo hình, xử lý nhiệt, làm cán dao và hoàn thiện sản phẩm theo phong cách thủ công tinh tế. Mỗi chiếc dao không đơn thuần là vật dụng nhà bếp, mà còn là một tác phẩm của sự tỉ mỉ và tinh thần nghề rèn truyền thống.
Điểm đặc biệt khiến anh trở thành tấm gương nổi bật là việc mạnh dạn kết hợp sản xuất dao "handmade" với phát triển du lịch trải nghiệm. Anh nhận ra rằng, du khách - nhất là người nước ngoài - thường tò mò về văn hóa làng nghề Việt Nam. Nếu biết kể câu chuyện đúng cách, làng nghề có thể trở thành điểm đến hấp dẫn.
Từ suy nghĩ đó, anh bắt đầu xây dựng mô hình trải nghiệm “Một ngày làm thợ rèn Đa Sỹ”. Du khách được tham quan không gian làng nghề, tìm hiểu lịch sử 500 năm rèn truyền thống; trực tiếp xem quy trình rèn dao: Nung thép, tôi lưỡi, tạo hình, mài sắc; tự tay rèn một sản phẩm nhỏ làm kỷ niệm; nghe kể về câu chuyện nghề, về những “bí quyết gia truyền” của người Đa Sỹ; mua sản phẩm dao thủ công chất lượng cao, đóng gói tinh tế.
Mô hình này nhanh chóng thu hút các đoàn khách trải nghiệm, đặc biệt là các nhà trường, khách nước ngoài. Nhiều video do du khách quay đã lan tỏa trên mạng xã hội, đưa hình ảnh nghề rèn Đa Sỹ đến với cộng đồng rộng lớn.
Không dừng lại ở đó, anh Thanh còn đề xuất Đoàn thanh niên phường và Hội Làng nghề tổ chức các buổi trải nghiệm cho đoàn viên, thanh niên, tham gia trưng bày gian hàng thanh niên tại ngày hội lớn của Đoàn… nhằm tạo nên hệ sinh thái du lịch - thương mại bền vững.
Là một đoàn viên, thanh niên sinh hoạt tại Đoàn phường Kiến Hưng, anh Thanh thường xuyên chia sẻ kinh nghiệm khởi nghiệp cho các bạn trẻ khác trong phường; hướng dẫn các bạn có đam mê học kỹ thuật rèn; hỗ trợ xây dựng thương hiệu, bán hàng online, định vị sản phẩm. Với anh, làm kinh tế không chỉ là tạo ra thu nhập, mà còn là cách lan tỏa giá trị, đóng góp cho cộng đồng. Nhưng hơn tất cả, phần thưởng lớn nhất với anh chính là việc nghề rèn của quê hương đã xóa nghèo cho bao hộ gia đình trước đây, nay tiếp tục đỏ lửa, và ngày càng có nhiều người trẻ trở lại với nghề vì họ nhìn thấy tương lai.
Không chỉ dừng lại ở việc sản xuất dao và làm du lịch, anh Đinh Công Thanh đang ấp ủ tham vọng lớn hơn, xây dựng thương hiệu dao Đa Sỹ thành một sản phẩm OCOP tiêu biểu của thành phố Hà Nội; mở rộng hệ sinh thái làng nghề với các sản phẩm lưu niệm, bộ dao cao cấp, workshop trải nghiệm chuyên sâu; kết nối với các nền tảng du lịch quốc tế để đưa Đa Sỹ trở thành điểm đến hấp dẫn. Anh mong muốn sau này, khi nhắc tới sản phẩm thủ công của Việt Nam, bạn bè quốc tế sẽ nhớ đến dao Đa Sỹ - một biểu tượng 500 năm của sự bền bỉ, khéo léo và sáng tạo.
Nguồn:https://hanoimoi.vn/lua-nghe-cua-nu-nghe-nhan-duy-nhat-lang-ren-da-sy-726942.html






Bình luận (0)