Trong số hơn 1 ngàn sinh viên Trường đại học Y Hà Nội tốt nghiệp năm 2025, có 46 em đạt loại giỏi, chiếm khoảng 4,3%, giảm so với năm 2024 và thuộc diện thấp nhất cả nước. Trong khi các khối ngành khác, tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp đạt xuất sắc, giỏi cao hơn rất nhiều, đặc biệt là các trường khối kinh tế như: Đại học Ngoại thương đợt tốt nghiệp tháng 4-2025, gần 80% trong số 1,3 ngàn sinh viên đạt giỏi và xuất sắc. Đại học Kinh tế Quốc dân năm 2025 ghi nhận một nửa trong số hơn 4,6 ngàn sinh viên đoạt loại xuất sắc. Những “con số biết nói” ấy đã chỉ ra sự mất cân bằng về tỷ lệ giỏi, xuất sắc trong hệ thống giáo dục đại học những năm gần đây.
Câu chuyện học - hành và danh hiệu
Trước hết, có thể thấy điểm chuẩn ngành y dao động từ 17-28 điểm, thuộc tốp những trường có điểm đầu vào tương đối cao. Tuy nhiên, ngành y nổi tiếng với chương trình học nặng và khó. Sinh viên phải học 4-6 năm, tiếp thu khối lượng kiến thức đồ sộ, thực tập liên tục tại bệnh viện và đối mặt với áp lực lớn trong thực hành lâm sàng tại các bệnh viện. Chính vì thế, việc chấm điểm thường rất nghiêm ngặt, điểm số cao trở thành điều hiếm hoi đối với sinh viên của nhóm ngành này. Để trở thành những sinh viên xuất sắc, đòi hỏi mỗi người cần nắm vững kiến thức lý thuyết và thực hành tốt, yêu cầu cực kỳ cao khiến thang điểm trong ngành y khắt khe hơn.
![]() |
Trường cao đẳng Miền Đông (phường Bình Phước) đã có nhiều đổi mới khi liên kết với doanh nghiệp gắn lý thuyết với thực hành, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo. Trong ảnh: Lễ bế giảng các lớp trung cấp, cao đẳng K2023, K2024 của trường. Ảnh: Phạm Quang |
Trong khi đó, nhiều trường khối kinh tế có số lượng hồ sơ đăng ký cao ngất ngưởng, luôn là lựa chọn hàng đầu mỗi mùa tuyển sinh và điểm số cũng chiếm tốp cao nhất. Thế nhưng trong quá trình học, sinh viên kinh tế được áp dụng phương thức đánh giá linh hoạt hơn với điểm chuyên cần, bài tập nhóm, tiểu luận và thi cử chiếm tỷ trọng khác nhau, giúp sinh viên có nhiều cơ hội gỡ điểm. Tuy nhiên, việc đào tạo lại chủ yếu mang tính đại trà, nặng về lý luận, thiếu kết nối với doanh nghiệp. Hệ quả, khi sinh viên ra trường, ở góc độ nào đó, năng suất lao động chưa cao, kỹ năng thực tiễn yếu, ra trường hầu như cần phải có thời gian để đào tạo lại.
Một nguyên nhân khiến tỷ lệ tốt nghiệp loại giỏi ở nhiều trường khối kinh tế cao là do giáo dục đang chịu áp lực cạnh tranh tuyển sinh và quảng bá thương hiệu. Không ít nơi có xu hướng “làm đẹp” đầu ra bằng cách xây dựng chuẩn đánh giá chưa thực sự sát với thực tiễn trong công việc sau khi ra trường, từ đó giúp sinh viên dễ đạt điểm cao. Điều này vô tình tạo ra tâm lý học để lấy bằng hơn là học để có năng lực. Nguy hiểm hơn, ở một số nơi đã xuất hiện hiện tượng tiêu cực như: “xin điểm, chạy điểm”, “mua bằng”, biến tấm bằng đại học thành món hàng có thể thương lượng. Khi điểm số không còn phản ánh thực chất, xã hội sẽ mất niềm tin vào bằng cấp, còn người học thực sự sẽ chịu thiệt thòi trong môi trường tuyển dụng.
Ngược lại, ngành y do đặc thù liên quan trực tiếp đến sức khỏe và tính mạng con người - vẫn giữ chuẩn đánh giá nghiêm ngặt, khiến tỷ lệ tốt nghiệp loại giỏi thấp. Điều này vừa là áp lực vừa là bảo chứng chất lượng cho tấm bằng bác sĩ của mỗi sinh viên.
Chưa tương xứng trong đãi ngộ đối với người học thật, làm thật
Vấn đề nữa là câu chuyện đãi ngộ. Một bác sĩ phải học 6 năm, thực tập mòn mỏi, chịu áp lực sinh tử, nhưng lương khởi điểm lại khá khiêm tốn. Trong khi đó, một số ngành kinh tế cho sinh viên ra trường sớm hơn, thu nhập khởi điểm lại khá cao dù năng lực thực tế chưa chắc vượt trội. Điều này tạo ra một sự chênh lệch giữa giá trị thực và giá trị ảo: bằng cấp không phản ánh đúng năng lực, người học thật không được tưởng thưởng xứng đáng, trong khi người học ít thời gian hơn lại dễ kiếm được vị trí tốt. Chính vì vậy, yêu cầu phải xây dựng cơ chế công bằng hơn trở thành điều cấp bách: người học thật, làm thật phải được trả công xứng đáng. Nếu không, rất dễ xảy ra tình trạng “chảy máu chất xám” - khi bác sĩ giỏi tìm đường ra nước ngoài làm việc.
Đối với các học viện, đại học, trường đại học, cơ sở giáo dục nghề nghiệp (trường cao đẳng, trung cấp), cần xây dựng một số trường, trung tâm đào tạo tiên tiến chuyên sâu về trí tuệ nhân tạo; tập trung sắp xếp, tổ chức lại các cơ sở giáo dục nghề nghiệp hiện có bảo đảm tinh gọn, hiệu quả, đạt chuẩn; phân cấp mạnh các cơ sở giáo dục nghề nghiệp về chính quyền địa phương quản lý...
Để khắc phục tình trạng nêu trên, cần một cuộc cơ cấu lại toàn diện hệ thống giáo dục đại học, trong đó tập trung vào 3 trụ cột:
Gắn đào tạo với thực tiễn: Cần thay đổi triệt để phương pháp giảng dạy: giảm lý thuyết suông, tăng cường thực hành, thực tập bắt buộc và đánh giá năng lực qua dự án thực tế. Nhà trường phải kết nối với doanh nghiệp, bệnh viện, tổ chức xã hội để tạo môi trường học tập thực tế cho sinh viên ngay từ khi còn ngồi trên ghế giảng đường.
Xây dựng chuẩn đầu ra sát với thực tế công việc sau khi ra trường: Chuẩn đầu ra không thể chỉ dựa vào điểm số học phần. Cần có hệ thống đánh giá năng lực thực tế, kỹ năng nghề nghiệp và thái độ làm việc. Các kỳ thi chuẩn hóa, bài kiểm tra năng lực hoặc đánh giá thông qua thực tập nghề nghiệp nên được đưa vào như một phần bắt buộc trong quy trình tốt nghiệp.
Thiết lập hệ thống đãi ngộ công bằng và minh bạch: Chính sách lương, thưởng và cơ hội thăng tiến cần phản ánh đúng năng lực và hiệu quả công việc. Các ngành học đặc thù, có đóng góp lớn nhưng thu nhập thấp như: y tế, giáo dục cần được ưu tiên hỗ trợ. Đồng thời, khuyến khích sinh viên học vì năng lực và đam mê, chứ không chạy theo điểm chuẩn hay “mác ngành”.
Cần một cuộc cách mạng trong sắp xếp hệ thống giáo dục đại học
Trước một số bất cập nêu trên, Bộ Giáo dục và Đào tạo cần quán triệt và thực hiện nghiêm túc Nghị quyết số 71-NQ/TW, ngày 22-8-2025 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo. Sắp xếp, kiện toàn đơn vị sự nghiệp công lập theo yêu cầu của Nghị quyết số 19-NQ/TW, ngày 25-10-2017 của Hội nghị Trung ương 6 khóa XII, Ban Chỉ đạo Trung ương và của Chính phủ về tổng kết thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW, quy định của Chính phủ, chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ và hướng dẫn của bộ quản lý ngành, lĩnh vực (đặc biệt là sắp xếp các đơn vị sự nghiệp công lập ở cấp xã khi thực hiện mô hình chính quyền địa phương 2 cấp). Rà soát, thực hiện việc sắp xếp, tổ chức lại đơn vị sự nghiệp công lập thuộc phạm vi quản lý theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, bảo đảm nguyên tắc một đơn vị sự nghiệp công lập có thể cung ứng nhiều dịch vụ sự nghiệp công cùng loại nhằm giảm mạnh đầu mối, khắc phục chồng chéo, dàn trải, trùng lắp về chức năng, nhiệm vụ…
Cải cách giáo dục đại học không thể chỉ dừng lại ở việc thay đổi chương trình hay phương pháp dạy học. Đó là một quá trình cơ cấu lại toàn bộ hệ thống, từ cách tuyển sinh, tổ chức đào tạo, kiểm định chất lượng đến cơ chế sử dụng và đãi ngộ nhân lực. Khi nào người học thật, làm thật được đối xử công bằng và tôn trọng đúng giá trị, khi đó giáo dục mới thực sự là nền tảng cho phát triển bền vững, để đất nước Việt Nam vươn mình trong thế kỷ XXI.
Hiền Mai - Hiền Dần
Nguồn: https://baodongnai.com.vn/xa-hoi/giao-duc/202510/mat-can-bang-can-can-giao-duc-va-yeu-cau-doi-moi-toan-dien-79e0f37/
Bình luận (0)