Nuôi truyền thống hiệu quả không cao
Theo báo cáo của Chi cục Thủy sản, Chăn nuôi và Thú y Hải Phòng, hoạt động nuôi trồng thủy sản lồng bè trên biển trên địa bàn chủ yếu thực hiện ở khu vực đảo Cát Bà (huyện Cát Hải cũ), nay thuộc đặc khu Cát Hải. Do trước đây, hoạt động nuôi cá không theo quy hoạch gây ô nhiễm môi trường; diện tích mặt nước bị thu hẹp do lồng bè phát triển dày đặc; ảnh hưởng tới phát triển không gian, cảnh quan du lịch nên thành phố yêu cầu địa phương sắp xếp lại hoạt động nuôi lồng bè theo hướng bền vững gắn với phát triển du lịch và bảo vệ cảnh quan thiên nhiên.
Sau khi sắp xếp, hiện nay, đặc khu Cát Hải có 135 cơ sở nuôi trồng thủy sản lồng bè trên các vịnh thuộc quần đảo Cát Bà, bao gồm: 120 cơ sở nuôi lồng bè, 15 cơ sở nuôi dàn bè. Đối với 120 cơ sở nuôi lồng bè trên biển, có 10 cơ sở đóng bè nhựa HDPE, 110 cơ sở đóng bè gỗ. Đặc khu giao khu vực biển cho 97 cơ sở, thực hiện sắp xếp vào vị trí quy hoạch cho 45 cơ sở/97 cơ sở đã giao khu vực biển (46,39%). Sản lượng nuôi trồng thủy sản lồng bè 10 tháng đầu năm ước đạt trên 400 tấn cá các loại (cá song, cá giò, cá vược, cá hồng Mỹ…).
Qua khảo sát, các lồng bè chủ yếu vẫn nuôi theo hình thức truyền thống. Bà Đặng Thị Thanh, Trưởng Phòng Khuyến ngư (Trung tâm Khuyến nông Hải Phòng) cho biết, trong những năm qua, các hộ nuôi cá lồng bè tại Hải Phòng chủ yếu sử dụng vật liệu làm khung lồng đa số là gỗ, vật liệu nổi bằng phao nhựa, phi nhựa 200 lít, một số ít cơ sở và hộ dân chuyển đổi thay thế bằng vật liệu mới HDPE... để nuôi. Tuy nhiên, hệ thống nuôi này có tuổi thọ chỉ từ 3 - 5 năm.
Việc sử dụng vật liệu thô sơ này có chi phí đầu tư thấp, giá rẻ nhưng thời gian sử dụng ngắn do gỗ, tre, xốp dễ bị mục, gãy rách lưới gây thất thoát cá ra ngoài, tăng rủi ro trong quá trình nuôi. Rác thải từ vật liệu này khó thu gom triệt để, khó nâng cấp, sửa chữa, khi hư hỏng những phế phẩm thải ra môi trường, trôi dạt đi khắp nơi và lơ lửng ở trong nước biển, gây nhiễm môi trường tự nhiên và mất mỹ quan đối với khách du lịch.
Về kỹ thuật, hiện nay, nông dân chủ yếu vẫn nuôi theo kinh nghiệm, tự phát, chưa áp dụng các công nghệ tiên tiến, sử dụng con giống không có nguồn gốc, không bảo đảm chất lượng. Thức ăn nuôi cá là cá tạp, cá con được thu mua từ các tàu khai thác thủy sản. Nếu không kiểm soát được chất lượng cá tạp, dễ mang mầm bệnh vào vật nuôi, dễ ô nhiễm môi trường và không chủ động được nguồn thức ăn. Quy mô sản xuất nhỏ lẻ, chưa có chuỗi liên kết sản xuất tiêu thụ sản phẩm. Vì vậy, tốc độ sinh trưởng, tỷ lệ sống thấp, hiệu quả kinh tế chưa cao.
Đầu tư hạ tầng, kỹ thuật đồng bộ
Để nuôi thuỷ sản trở thành một ngành sản xuất hàng hóa quy mô lớn, công nghiệp, đồng bộ, an toàn, hiệu quả, bền vững và bảo vệ môi trường gắn với du lịch sinh thái, tạo sản phẩm có thương hiệu, năm 2025, Trung tâm Khuyến nông Hải Phòng hỗ trợ thực hiện dự án khuyến nông quốc gia “Xây dựng mô hình nuôi cá song (mú trân châu) bằng lồng HDPE trên biển đạt chứng nhận VietGAP gắn với tiêu thụ sản phẩm”. Nông dân thực hiện hiệu quả dự án và có khả năng nhân rộng.
Ông Trần Văn Tuyên, nuôi cá lồng bè ở đặc khu Cát Hải cho biết, gia đình ông nuôi 48 ô lồng nuôi thủy sản các loại. Được Trung tâm Khuyến nông hỗ trợ, thực hiện 16/48 dự án trên trong năm 2025, đến cuối năm, dự án đạt kết quả ban đầu cho thấy mô hình giảm rủi ro, hiệu quả kinh tế cao gấp 1,5 mô hình nuôi thông thường, sản phẩm an toàn... nên thời gian tới, gia đình tiếp tục thực hiện quy trình sản xuất này với các ô lồng còn lại.
Không chỉ với giải pháp hỗ trợ của khuyến nông, theo ông Đỗ Đức Thịnh, Phó chi cục trưởng Chi cục Thủy sản, Chăn nuôi và Thú y Hải Phòng, về lâu dài, giải pháp chủ yếu để hoạt động nuôi cá lồng bè trên biển hoạt động hiệu quả là cần khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư vào lĩnh vực nuôi biển. Cùng với đó, phát triển các hình thức đầu tư có sự tham gia giữa nhà nước và doanh nghiệp đối với phát triển thủy sản, giảm dần tỷ lệ và nâng cao hiệu quả đầu tư công. Mặt khác, đầu tư cơ sở hạ tầng kỹ thuật đồng bộ, hiện đại, bao gồm xây dựng, nâng cấp, cải tạo các hạng mục hạ tầng thiết yếu phục vụ các vùng nuôi biển, vùng sản xuất giống...
Về phía chính quyền địa phương, đặc khu Cát Hải là địa bàn trọng điểm về nuôi cá lồng bè trên biển cần có những giải pháp thiết thực để tăng cường quản lý và nâng cao hiệu quả kinh tế đối với hoạt động này. Đặc khu tăng cường công tác quản lý nhà nước về quy hoạch, nhất là quy hoạch giao, cho thuê các vùng nuôi thủy sản tập trung, bảo đảm cho người dân nuôi trồng đạt giá trị kinh tế cao. Cùng với đó, đẩy mạnh quản lý và kiểm soát chất lượng sản phẩm nuôi, thường xuyên tuyên truyền các hộ nuôi trên biển sử dụng vật liệu thân thiện làm giàn bè để bảo vệ môi trường biển...
HƯƠNG ANNguồn: https://baohaiphong.vn/mo-huong-phat-trien-nuoi-ca-long-be-tren-bien-528589.html










Bình luận (0)