Các đánh giá cho thấy, trước yêu cầu cải cách tư pháp, việc hoàn thiện thể chế Thừa phát lại là xu thế tất yếu. Đích đến là giúp người dân có thêm cơ hội lựa chọn yêu cầu thi hành án; xây dựng nền tư pháp hiện đại, minh bạch.

Chế định cần được đặt trong chiến lược cải cách tư pháp quốc gia
Việc xã hội hóa một số hoạt động tư pháp những năm gần đây đang được Đảng và Nhà nước quan tâm. Tuy nhiên, đối với chế định thừa phát lại kể từ khi thực hiện đề án thí điểm vào năm 2009 đến nay đã hơn 16 năm nhưng việc xã hội hóa lĩnh vực này vẫn chưa đạt được kỳ vọng.
Thừa phát lại là người được Nhà nước bổ nhiệm và trao quyền để thực hiện các công việc liên quan đến thi hành án dân sự, tống đạt giấy tờ, lập vi bằng (ghi nhận sự kiện hành vi pháp lý để làm chứng cứ) và các công việc khác theo quy định của pháp luật. Từ đó, góp phần giảm tải cho các cơ quan Thi hành án và Tòa án; mở rộng quyền lựa chọn dịch vụ pháp lý “tư” cho người dân và doanh nghiệp.
Tuy vậy, thừa phát lại vẫn đang đứng bên lề hoạt động thi hành án. Ông Hoàng Thế Anh, Trưởng ban Nghiệp vụ Thi hành án hành chính và Thừa phát lại, Cục Quản lý thi hành án dân sự (Bộ Tư pháp) cho hay, bất cập này có nguyên nhân, Nghị định số 08/2020/NĐ-CP đã giới hạn phạm vi, thẩm quyền của Thừa phát lại trong tổ chức thi hành án; không quy định Thừa phát lại được áp dụng các biện pháp bảo đảm, cưỡng chế thi hành án dân sự; không được yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp, xác định quyền sở hữu, phân chia tài sản chung của người phải thi hành án với người khác; đề nghị tòa án tuyên bố giao dịch liên quan đến tài sản thi hành án vô hiệu.

Bà Vũ Thảo Phương (Học viện Ngoại giao) phân tích, “mặc dù có nhiều đóng góp tích cực, song phạm vi thẩm quyền và cơ chế quản lý, giám sát đối với thừa phát lại vẫn còn bất cập. Một số quy định về tiêu chuẩn nghề nghiệp, bổ nhiệm, đào tạo chưa theo kịp yêu cầu phát triển và hội nhập quốc tế”.
Nhìn tổng thể, khung pháp lý về thừa phát lại hiện vẫn dừng ở cấp nghị định, thiếu cơ chế phối hợp liên ngành. Nhiều trường hợp, việc lập vi bằng bị hiểu sai, hoặc bị lạm dụng thay cho công chứng, dẫn đến tranh chấp phức tạp.
Cùng quan điểm, bà Nguyễn Thị Quỳnh Như (Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh) cho rằng, nhận thức xã hội về thừa phát lại còn hạn chế, khiến người dân chưa khai thác hết tiềm năng của chế định này.

Yêu cầu nâng cao chất lượng nhân sự
Nhấn mạnh vai trò quan trọng của hoàn thiện thể chế, ông Nguyễn Văn Nhàn (Cục Thi hành án dân sự tỉnh Đồng Tháp) cho hay, để khắc phục các hạn chế nêu trên, có nhiều giải pháp. Trong đó có giải pháp hoàn thiện về thể chế, bảo đảm thực hiện có hiệu quả chủ trương xã hội hóa công tác thi hành án dân sự theo tinh thần đã trao quyền thì cần trao công cụ để thực hiện.
Theo hướng đi này, ông Nguyễn Văn Nhàn kiến nghị sớm nâng quy định về thừa phát lại lên thành Luật Thừa phát lại, nhằm tạo khung pháp lý ổn định, đồng bộ. “Chỉ khi có luật riêng, chế định này mới phát huy được hiệu quả và tạo niềm tin cho người dân, doanh nghiệp trong việc lựa chọn dịch vụ pháp lý ngoài công lập”, ông Nhàn nhấn mạnh.
Từ góc nhìn hội nhập, TS Trần Thị Mai Phước (Đại học Mở thành phố Hồ Chí Minh) nhận định: “Học hỏi kinh nghiệm quốc tế không chỉ giúp Việt Nam khắc phục các hạn chế về pháp lý, mà còn giúp định vị thừa phát lại như một nghề tư pháp hiện đại, chuyên nghiệp, phù hợp với cam kết quốc tế về quyền con người và quyền tiếp cận công lý”.
Trao đổi với phóng viên Hànộimới về những đổi mới nêu trên, luật gia Lê Quang Vững nêu quan điểm ủng hộ, song lưu ý về nguồn lực, nghiệp vụ và nhân sự để bảo đảm tổ chức thi hành án. Ông Lê Quang Vững cho rằng, trong trường hợp được trao quyền, do các văn phòng thừa phát lại trước nay chưa thực hiện thi hành án, không có nhân sự xuất phát từ cơ quan thi hành án công, bước đầu sẽ gặp nhiều khó khăn và có thể dẫn đến sai sót về mặt nghiệp vụ.
Để giải quyết việc này, có thể yêu cầu văn phòng thừa phát lại (trong khoảng 2 năm đầu từ khi luật có hiệu lực), nếu muốn tổ chức thi hành án, tối thiểu phải có một nhân sự từng làm chấp hành viên tại cơ quan thi hành án dân sự. Ngoài ra, đội ngũ thừa phát lại cần có số năm kinh nghiệm tương xứng, như đã công tác pháp luật từ 7 năm trở lên, vì hoạt động thi hành án rất phức tạp.
Tính đến ngày 30-9-2025, cả nước đã thành lập được 224 Văn phòng Thừa phát lại tại 30 tỉnh, thành phố với 403 Thừa phát lại hoạt động. Các Văn phòng Thừa phát lại đã tống đạt 4.882.197 văn bản; lập 619.229 vi bằng; xác minh điều kiện thi hành án 27 vụ việc; tổ chức thi hành án 35 vụ việc.
Nguồn: https://hanoimoi.vn/mo-rong-co-hoi-lua-chon-yeu-cau-thi-hanh-an-chat-che-co-kiem-soat-719920.html
Bình luận (0)