“Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ”
Trong số rất nhiều nghề truyền thống, nghề làm giấy dó của người Việt ra đời từ rất lâu và thực sự gắn bó với đời sống người Việt xưa, nó chính là chất liệu để lưu giữ và truyền tải các giá trị văn hóa lịch sử cha ông.
Làng nghề giấy dó Yên Thái, còn gọi là Kẻ Bưởi, ở phía Tây Bắc của Thủ đô Hà Nội. Nghề làm giấy ở Việt Nam đã có từ xa xưa, có thể nói là ngay từ những năm đầu Công nguyên. Năm 284, các thương gia La Mã đã mua của ta 3 vạn tờ giấy Mật Hương để dâng lên Vua Tấn Vũ Đế. Một học giả người Hoa là Kê Hàm cũng đã xác nhận giấy Mật Hương của Giao Chỉ làm bằng gỗ trầm thơm, màu trắng, có vân vảy cá, thả vào nước không nát...
Khi Nhà nước Đại Việt ra đời và định đô ở Thăng Long, nghề này ở làng Yên Thái phát triển mạnh. Giấy dó Yên Thái đã từng là mặt hàng triều cống cho triều đình nhà Tống của đời Vua Lý Cao Tông (1176 - 1210). Trong sách “Dư địa chí” (1435), Nguyễn Trãi cũng đã đề cập đến phường Yên Thái ở Thăng Long gồm các làng Hồ Khẩu, Đông Xã, An Thọ, Yên Thái, Nghĩa Đô làm ra nhiều loại giấy: giấy sắc (để viết sắc của vua ban), giấy lệnh (để viết các lệnh chỉ của vua), giấy bản (phục vụ dân dụng), giấy quỳ...
Thời xưa, có lẽ làng nghề này đã cung cấp phần lớn lượng giấy cho nhu cầu cả nước, nên tiếng chày giã dó một thời đã thành một trong những nét đặc trưng của kinh kỳ. Âm thanh tiếng chày khua trong đêm đã đi vào ca dao: “Gió đưa cành trúc la đà/Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương/Mịt mù khói tỏa ngàn sương/Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ”.
Nghề làm giấy cổ truyền ở Yên Thái xưa cũng đã khá phức tạp, nó đòi hỏi từng loại thợ ở từng công đoạn tỉ mỉ phải có kinh nghiệm và giỏi nghề. Tuy không quá phức tạp, tinh xảo nhưng đòi hỏi có sự kết hợp hài hòa giữa sức mạnh, sự dẻo dai của người đàn ông và sự khéo léo của người phụ nữ. Nguyên liệu để làm giấy dó chính là vỏ của cây dó - loại cây cao từ 1 - 2m mọc tự nhiên thành rừng ở khu vực Phú Thọ, Yên Bái. Người dân trong làng thường lên đó thu mua vỏ dó rồi đóng thành từng bè xuôi theo dòng chảy sông Hồng và tập kết ở bến Xù Gạ (gần bến Chèm, quận Bắc Từ Liêm, ngày nay tên địa danh vẫn vậy), dùng xe bò tay kéo về làng.
Sau khi có được nguyên liệu tốt, hàng loạt các công đoạn sản xuất được thực hiện liên tục, nối tiếp nhau như: ngâm vỏ dó xuống ao cho mềm; ủ vôi tảng và hấp cách thủy trên vạc trong lò nung; phân loại sợi dó; giã cho nhuyễn; đãi bột; seo giấy; ép giấy; phơi, sấy khô và xếp thành từng chồng.
Làng từng vinh dự được đón Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm
Giấy Yên Thái dùng lò sấy là chủ yếu, ít khi phải đem phơi. Do đó, dù trời mưa vẫn không ảnh hưởng đáng kể đến công việc, giấy vẫn được sấy khô như thường. Lò sấy giấy đã xuất hiện ở Yên Thái từ mấy trăm năm trước đây.
Có thể nói, ở tất cả các công đoạn sản xuất từ bóc vỏ dó, ngâm và giặt dó, giã dó, nấu dó, lọc dó, seo giấy, đến đóng gói kiện giấy và vận chuyển đi bán đều hết sức vất vả và hầu như hoàn toàn bằng sức người với đôi tay trần của người thợ.
Trải qua nhiều công đoạn chế tác thủ công cầu kỳ, phức tạp, đôi tay tài hoa của người thợ Việt đã làm ra thành những tờ giấy nhẹ như bấc, mềm như lụa, óng như tơ, nhưng bên trong dáng vẻ mảnh mai tinh tế đó lại chứa đựng sức bền tuyệt vời đối với thời gian dù trong điều kiện khắc nghiệt của khí hậu nhiệt đới gió mùa. Giấy dó Yên Thái có thể bảo quản được hàng trăm năm mà không bị mốc hay hư hại.
Giấy dó truyền thống ở vùng Bưởi được một người Pháp có tên Henri Oger mô tả trong cuốn “Kỹ thuật của người An Nam” là loại giấy xốp nhẹ mà bền dai, không nhòe khi viết vẽ, ít bị mối mọt. Giấy dó cũng nổi tiếng với độ bền có thể lên tới hàng trăm năm do đặc tính của xơ sợi và quy trình làm hoàn toàn bằng thủ công, không có sự tác động của hóa chất. Chính vì điều này, người xưa đã dùng giấy dó để in kinh sách, viết chữ, in tranh dân gian và đặc biệt hơn cả khi các triều đại phong kiến Việt Nam dùng nó cho việc viết sắc phong.
Có một điều mà người dân làng Yên Thái luôn tự hào, đó là bản Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh được in trên giấy dó vùng Bưởi, bìa được bóc kép 6 lần và những tờ giấy ruột bên trong cũng được bóc kép 3 lần. Làng cũng từng vinh dự được đón Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm trong cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên năm 1946.
“Điểm dịch vụ, du lịch văn hóa và giới thiệu nghề truyền thống làm giấy dó của vùng Bưởi xưa” tại địa chỉ số 189 phố Trích Sài (phường Tây Hồ, Hà Nội) là một trong những giải pháp trọng tâm để thúc đẩy phát triển ngành dịch vụ, du lịch. Đây cũng là nơi tổ chức các giờ học ngoại khóa, tham quan của các bậc học trên địa bàn quận. Kết hợp trưng bày hiện vật và trải nghiệm, khu du lịch nghề giấy dó Yên Thái đang trở thành điểm đến hấp dẫn, vừa lưu giữ ký ức làng nghề, vừa truyền cảm hứng bảo tồn văn hóa cho thế hệ trẻ.
Nguồn: https://baophapluat.vn/net-tinh-hoa-van-hoa-xua-tai-lang-nghe-giay-do-nien-dai-nghin-nam.html






Bình luận (0)