Vietnam.vn - Nền tảng quảng bá Việt Nam

Nhất quán thực hiện chính sách dân tộc “các dân tộc bình đẳng, tương trợ, giúp nhau cùng phát triển”

Trên dải đất hình chữ S, 54 dân tộc anh em đã cùng nhau gắn bó, đoàn kết và dựng xây non sông qua hàng nghìn năm lịch sử. Mỗi dân tộc có phong tục, tiếng nói, bản sắc văn hóa riêng, nhưng đều chung khát vọng độc lập, tự do và hạnh phúc. Chính sự gắn kết đó đã tạo nên sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc – nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

Việt NamViệt Nam17/09/2025

Ngày nay, trong công cuộc đổi mới và hội nhập, Đảng và Nhà nước ta luôn khẳng định: các dân tộc đều bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau cùng phát triển. Quan điểm ấy không chỉ thể hiện trong đường lối, pháp luật mà còn được minh chứng sinh động bằng những thành tựu cụ thể trong phát triển kinh tế – xã hội, giảm nghèo, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào dân tộc thiểu số.

anh tin bai

ảnh minh họa (nguồn intenet)

Quan điểm, đường lối chính trị và cơ sở pháp lý vững chắc
Việt Nam là quốc gia thống nhất với 54 dân tộc anh em, trong đó dân tộc Kinh chiếm khoảng 85-87% dân số cả nước, các dân tộc thiểu số (DTTS) còn lại chiếm khoảng 14-15%.
Chính từ khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: mọi dân tộc — bất kể Kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Gia Rai hay Ê Đê… — đều là anh em ruột thịt, đều có quyền bình đẳng, được bảo vệ và cùng đóng góp vào hạnh phúc chung.
Đảng luôn giữ ổn định quan điểm này: chính sách dân tộc được xây dựng từ rất sớm (chẳng hạn “Chính sách dân tộc thiểu số của Đảng” năm 1952), được thể hiện trong Điều lệ Đảng, các Đại hội Đảng, và được Hiến pháp năm 2013 ghi nhận rõ ràng trong các điều khoản như Điều 5 và Điều 11. Những văn kiện này không chỉ nói về bình đẳng mà còn về quyền được giúp đỡ, tôn trọng, và quyền bảo vệ chủ quyền quốc gia đi đôi với quyền và nghĩa vụ của các dân tộc.
Cơ sở pháp lý ấy đã tạo ra một khung chính sách bền vững để Đảng, Nhà nước triển khai các chương trình hỗ trợ, đầu tư phát triển vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, đảm bảo không để dân tộc nào bị bỏ lại phía sau trong quá trình phát triển đất nước.
Thực tiễn đổi thay rõ nét: từ chênh lệch đến thu hẹp khoảng cách
Cùng với đường lối và pháp luật, thực tiễn đã chứng minh hiệu quả của chính sách dân tộc qua nhiều số liệu cụ thể trong các năm 2021-2025:
Đến cuối năm 2024, thu nhập bình quân đầu người của đồng bào DTTS đạt khoảng 43,4 triệu đồng/năm, tăng gấp 3,1 lần so với năm 2020.
Tỷ lệ hộ nghèo dân tộc thiểu số giảm đáng kể: năm 2024 là 12,55%, giảm 3,95 điểm phần trăm so với trước đó.
Về cơ sở hạ tầng cơ bản: tính đến cuối 2024, tỷ lệ xã vùng dân tộc thiểu số và miền núi có đường ô tô tới trung tâm xã đạt 98,4%; điện lưới quốc gia tới hộ dân vùng DTTS đạt 96,7%.
Về giáo dục – y tế cơ bản: có 100% xã vùng DTTS có trường học các cấp mầm non, tiểu học và trung học cơ sở; 99,3% xã vùng đồng bào DTTS có trạm y tế; khoảng 83,5% trạm y tế đạt chuẩn quốc gia; 69,1% trạm có bác sĩ trực tiếp khám chữa bệnh.
Những con số này cho thấy vùng đồng bào dân tộc thiểu số đã có bước tiến mạnh mẽ trong tiếp cận các dịch vụ công như y tế, giáo dục, cơ sở hạ tầng — điều mà trước đây chỉ là mong muốn. Việc giảm nghèo, nâng cao thu nhập, cải thiện điều kiện sống đã góp phần thực hiện mục tiêu “giúp nhau cùng phát triển”.
Thách thức còn đó và nhiệm vụ phía trước
Mặc dù đã có nhiều thành tựu rõ rệt, vùng đồng bào dân tộc thiểu số vẫn phải đối mặt với một số khó khăn:
Lao động người DTTS được đào tạo chuyên môn kỹ thuật còn thấp: ví dụ vùng DTTS có tỷ lệ lao động được đào tạo sơ cấp trở lên khoảng 10,3%, trong khi toàn quốc là khoảng 23,1%.
Hộ nghèo, cận nghèo vẫn tập trung cao trong các vùng miền núi, vùng đặc biệt khó khăn.
Khoảng cách về trình độ dân trí, hạ tầng số, khả năng tiếp cận dịch vụ công nghệ thông tin còn lớn. Một bộ phận đồng bào DTTS chưa nhập học đúng độ tuổi, hoặc khả năng đọc viết tiếng phổ thông chưa cao.
Do vậy, trong chặng đường tới, Đảng và Nhà nước cần tiếp tục: Tăng cường đầu tư ngân sách và nguồn lực cho vùng DTTS, đặc biệt cho giáo dục, đào tạo nghề, y tế cơ sở và hạ tầng số. Thực hiện mạnh hơn chương trình mục tiêu quốc gia vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030 với các mục tiêu cụ thể về thu nhập, nước sạch, điện, trường học, trạm y tế.
Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh khả năng tự lực, tự cường của đồng bào DTTS thông qua việc phát huy nội lực, hỗ trợ phát triển sản xuất, kinh tế số, du lịch cộng đồng, phát huy bản sắc văn hóa.
Chính sách “các dân tộc bình đẳng, tương trợ, giúp nhau cùng phát triển” không chỉ là khẩu hiệu, mà đã được Đảng, Nhà nước cụ thể hóa bằng pháp luật và các chương trình, với hiệu quả thực tế rõ ràng. Những con số nói lên rằng vùng đồng bào dân tộc thiểu số đang dần rút gần khoảng cách với mặt bằng chung cả nước — về thu nhập, cơ sở hạ tầng, giáo dục, y tế.
Tuy nhiên, để “không ai bị bỏ lại phía sau”, để mỗi dân tộc, mỗi vùng miền đều có cơ hội phát triển toàn diện, còn đòi hỏi quyết tâm hơn nữa từ cấp Trung ương đến địa phương — từ soi xét chính sách, bố trí nguồn lực đến thực thi ở cấp cơ sở. Khi ấy, sự bình đẳng dân tộc mới không chỉ là lý luận, mà sẽ thực sự hiển hiện trong đời sống của từng người dân, từng cộng đồng.

Nguồn: https://ninhbinh.gov.vn/van-hoa-xa-hoi/nhat-quan-thuc-hien-chinh-sach-dan-toc-cac-dan-toc-binh-dang-tuong-tro-giup-nhau-cung-phat-trien-357867


Bình luận (0)

No data
No data

Cùng chuyên mục

Về làng chài Lộ Diêu ở Gia Lai xem ngư dân ‘vẽ hình’ cỏ ba lá trên biển
Thợ khóa biến vỏ lon bia thành lồng đèn Trung thu sống động
Chi tiền triệu học cắm hoa, tìm trải nghiệm gắn kết dịp Trung thu
Có một đồi hoa Sim tím ngát vùng trời Sơn La

Cùng tác giả

Di sản

;

Nhân vật

;

Doanh nghiệp

;

No videos available

Thời sự

;

Hệ thống Chính trị

;

Địa phương

;

Sản phẩm

;