Để thực hiện được mục tiêu trên, việc tư vấn xác định (lựa chọn) danh mục nhiệm vụ KHCN đặt hàng là khâu đặc biệt quan trọng. Thường thì đề xuất của cá nhân và đơn vị rất lớn, gấp nhiều lần yêu cầu, chất lượng và sự bức thiết cũng khác nhau. Kết quả nghiên cứu lại là một trong những điều kiện để xem xét danh hiệu thi đua khen thưởng trong hệ thống chính trị. Việc lựa chọn danh mục nghiên cứu đúng sẽ quyết định rất lớn đến hiệu quả đầu tư, ngược lại hiệu quả thấp, lãng phí, thậm chí có thể tác động xấu đến liêm chính học thuật và sự thăng tiến của nhiều người.
Đối với nhiệm vụ nghiên cứu KHCN thì cấp quốc gia, cấp bộ, cấp Quỹ KHCN quốc gia (Nafosted), cấp cơ sở (viện hay trung tâm nghiên cứu, trường đại học) thì ít nhiều đều chuyển biến và yên tâm hơn so với nhiệm vụ KHCN cấp tỉnh. Ở tầm quốc gia, đầu tư cho KHCN suốt nhiều thập kỷ chủ yếu là ngân sách nhà nước, thì từ năm 2020 đến nay đã có sự chuyển biến khá mạnh mẽ, cùng với tốc độ tăng trưởng trên 10%/năm, hiện cơ cấu vốn ngân sách và vốn xã hội (tư nhân) đã là 50/50. Nhưng nghiên cứu KHCN cấp tỉnh thì cơ bản vẫn đang là vốn ngân sách. Vốn ngân sách đầu tư bình quân/1 nhiệm vụ KHCN các cấp đã được cải thiện đáng kể, nhiệm vụ KHCN cấp quốc gia là trên 4 tỷ đồng, cấp bộ là trên 1,5 tỷ và cấp tỉnh trên dưới 01 tỷ đồng. Công bố khoa học trong nước và quốc tế, phát minh sáng chế, tiến bộ kỹ thuật trong cả hai khu vực công lập và tư nhân đều có xu hướng khởi sắc, trong đó, công bố khoa học trong nước và quốc tế, phát minh sáng chế, tiến bộ kỹ thuật khu vực công lập đều đến từ nhiệm vụ KHCN cấp quốc gia, cấp bộ, cấp quỹ Nafosted, cấp cơ sở, còn cấp tỉnh rất ít công bố trong nước, hầu như không có công bố quốc tế, phát minh sáng chế, tiến bộ kỹ thuật...
(1) Bất kỳ nhiệm vụ KHCN cấp nào (cấp quốc gia, cấp bộ, cấp tỉnh, cấp cơ sở) cũng đòi hỏi phải bảo đảm tính mới, tính sáng tạo. Thường thì tính mới, tính sáng tạo được quy định theo định tính, rất khó nhận diện và kiểm soát. Nhưng có một điểm có thể nhận diện và kiểm soát được, đó là nhiệm vụ nghiên cứu mới không được trùng lặp với nhiệm vụ đã hoặc đang nghiên cứu. Vấn đề là phạm vi xem xét sự trùng lặp lại chưa rõ ràng. Đối với sáng kiến (cấp độ nghiên cứu thấp hơn nhiệm vụ KHCN), cũng đã đòi hỏi tính mới, tính sáng tạo ở mức ý tưởng tương tự của người khác chưa bộc lộ ở trên sách báo để có thể bắt chước được (nếu có nội dung trùng lặp thì phải cải tiến khác đi). Tức là phạm vi rất rộng, không giới hạn ở một địa bàn hành chính. Phạm vi xem xét sự trùng lặp của các giải pháp kỹ thuật để công nhận sáng chế hay giải pháp hữu ích càng rộng hơn, cả phạm vi quốc gia và quốc tế. Phạm vi để xem xét sự trùng lặp đối với nhiệm vụ KHCN cấp quốc gia, cấp bộ là trong cả nước. Đối với nhiệm vụ KHCN do quỹ KHCN quốc gia tài trợ thì phạm vi xem xét sự trùng lặp là trong cả nước và quốc tế. Đối với nhiệm vụ KHCN cấp cơ sở đối với nhiều đơn vị, nhất là trường đại học cũng xem xét sự trùng lặp ở phạm vi trong cả nước và quốc tế. Có như vậy, mới đủ điều kiện để công bố khoa học trong nước và quốc tế. Đối với đề tài cấp tỉnh lâu nay quy định chung là “không trùng lặp với nhiệm vụ đã hoặc đang thực hiện” mà không quy định cụ thể phạm vi hành chính. Nhưng gần đây, Thông tư 09/2024/TT-BKHCN ngày 27/12/2024 của Bộ Khoa học và Công nghệ, quy định quản lý nhiệm vụ KHCN cấp tỉnh và cấp cơ sở sử dụng ngân sách nhà nước đã có một số thay đổi dễ dàng hơn. Đối với nhiệm KHCN cấp cơ sở, Thông tư không quy định cụ thể phạm vi xem xét trùng lặp, nhưng mục tiêu chủ yếu nghiên cứu KHCN của các trường đại học, viện nghiên cứu là công bố khoa học trong nước và quốc tế, nên quy chế nội bộ của họ vẫn là không trùng lặp với các vấn đề đã được nghiên cứu trong nước và quốc tế. Còn đối với nhiệm vụ KHCN cấp tỉnh đã quy định cụ thể hơn, nhưng lại thu hẹp phạm vi “không trùng lặp nhiệm vụ đã và đang thực hiện trên địa bàn tỉnh”. Các tỉnh đã bãi bỏ các văn bản hiện hành để thực hiện theo Thông tư 09. Như vậy là chấp nhận sự trùng lặp nhiệm vụ KHCN cấp tỉnh trong cả nước, tức là nhiệm vụ đã và đang thực hiện ở các tỉnh, các bộ, ngành và các đề tài cấp cơ sở (Viện nghiên cứu, các trường đại học) đều có thể tiếp tục thực hiện ở bất cứ tỉnh nào? Thường thì nhiệm vụ KHCN đã hoặc đang thực hiện ở cấp tỉnh khó “leo lên” nhiệm vụ cấp cao hơn hay cấp Viện, cấp trường đại học, nhưng có những đề tài cấp cao hơn hay đề tài cấp Viện, cấp trường có thể "hóa thân" xuống với cấp tỉnh và đề tài cấp tỉnh, thành phố này cũng có thể "hóa thân" thành đề tài của tỉnh kia. Lâu nay, đã rất khó kiểm soát sự trùng lặp, nay với cơ chế này thì sự trùng lặp có nguy cơ sẽ gia tăng. Ở cấp tỉnh, còn có nguy cơ nghiên cứu KHCN trùng lặp với các nghiên cứu của các tổ chức tư vấn chuyên nghiệp hay chức năng nhiệm vụ thường xuyên của cơ quan chuyên môn, tham mưu, giúp việc.
(2) Phản biện trong tư vấn xác định (lựa chọn) danh mục nhiệm vụ KHCN. Từ nhiều năm nay, theo quy định, Hội đồng tư vấn xác định nhiêm vụ KHCN các cấp được thành lập theo chuyên ngành, mỗi hội đồng có 2 thành viên có chuyên môn sâu trong hội đồng làm chuyên gia phản biện cho mỗi đề xuất đặt hàng. Nhưng trong thực tế, nhiệm vụ KHCN cấp quốc gia, cấp bộ, cấp quỹ KHCN quốc gia tài trợ và cấp cơ sở (trường đại học, viện nghiên cứu) là thành lập hội đồng tư vấn chuyên ngành hoặc liên ngành có quan hệ với nhau. Và đối với mỗi đề xuất đặt hàng, hội đồng phân công 02 thành viên làm ủy viên phản biện. Nhưng đối với nhiệm vụ KHCN cấp tỉnh lại khác. Các tỉnh thường không thành lập hội đồng tư vấn theo chuyên ngành, mà thành lập theo 4 khối: Khối các ngành khoa học tự nhiên (thường rất ít khi); khối các ngành nông, lâm nghiệp, bao gồm cả chăn nuôi, thủy sản, công nghệ sinh học...; khối các ngành công nghiệp (bao gồm cả xây dựng, giao thông, tài nguyên môi trường, công nghệ thông tin; khối các ngành xã hội và nhân văn, bao gồm: y dược, giáo dục đào tạo, chính trị, pháp luật, kinh tế, xây dựng đảng.... (đây là 3 khối phổ biến và thường xuyên).
Hội đồng tư vấn tổ chức theo khối gồm nhiều ngành làm cho số lượng hồ sơ tư vấn rất lớn (15-30 hồ sơ/01 hội đồng, nhiều ít tùy từng tỉnh). Trong khi thời gian làm việc của hội đồng thường chỉ có 01 buổi, dẫn đến hội đồng chỉ kịp thảo luận và bỏ phiếu lựa chọn những nhiệm vụ cần thực hiện, không kịp hoàn thiện tên, tính bức thiết, mục tiêu, nội dung nghiên cứu, sản phẩm KH&CN cần đạt được về số lượng và chất lượng. Những vấn đề đó hội đồng thường ủy nhiệm cho sở KHCN hoàn thiện, Sở KHCN lại phải cần đến sự phối hợp của bên đề xuất, đặt hàng ban đầu. Mặt khác, còn bất cập hơn là, quyết định thành lập hội đồng tư vấn cấp tỉnh theo từng khối, ngành lại ghi đích danh luôn 02 ủy viên phản biện, mà không để hội đồng căn cứ vào cơ cấu chuyên ngành của các thành viên để phân công phản biện theo một hoặc một số nhiệm vụ có quan hệ với nhau như đối với nhiệm vụ KHCN cấp quốc gia, cấp bộ, cấp Quỹ Nafosted, hay cấp cơ sở. Dẫn đến 2 ủy viên phản biện có khi phản biện 15-30 hồ sơ, chuyên môn ngành này lại "phán" cho hàng loạt ngành khác. Như vậy là vượt quá khả năng chuyên sâu của các uỷ viên phản biện, kết quả bỏ phiếu không tránh khỏi bị ảnh hưởng của yếu tố cảm tính.
(3) Xác định sản phẩm KHCN trong nhiệm vụ đặt hàng. Khi xác định nhiệm vụ KHCN cấp quốc gia, cấp bộ, cấp quỹ KHCN quốc gia, cấp cơ sở, ngoài báo cáo khoa học ra, sản phẩm yêu cầu phải là công bố khoa học (đăng trên tạp chí chuyên ngành trong nước thuộc danh mục tạp chí chấm điểm xét phong tặng GS, PGS hoặc trên tạp chí quốc tế có uy tín), hoặc có triển vọng đăng ký sáng chế, giải pháp hữu ích, được chứng nhận hoặc có triển vọng được chứng nhận tiến bộ kỹ thuật (cấp quốc gia, hay cấp bộ). Nhưng đối với nghiên cứu KHCN cấp tỉnh chủ yếu và phổ biến là báo cáo khoa học, quy trình công nghệ, không yêu cầu bắt buộc phải có công bố khoa học hay quy trình công nghệ có triển vọng được công nhận tiến bộ kỹ thuật hay đăng ký sáng chế, giải pháp hữu ích). Cho nên hàng năm, nhiệm vụ KHCN cấp tỉnh chiếm khoảng khoảng 30% số nhiệm vụ và 25% kinh phí nghiên cứu các cấp, nhưng rất ít công bố, rất ít đăng ký và hầu như chưa được cấp bằng sáng chế, giải pháp hữu ích, hay tiến bộ kỹ thuật.
Để khắc phục các bất cập trên đây thì việc xác định nhiệm vụ KHCN cấp tỉnh cần được quan tâm mấy vấn đề:
Một là, để bảo đảm tính mới, tính sáng tạo của nhiệm vụ KHCN đặt hàng cấp tính thì việc không trùng lặp cần được xem xét ở trong phạm vi cả nước, chứ không riêng trong phạm vi tỉnh; trùng lặp cần được xem xét không riêng nhiệm vụ KHCN các cấp với nhau, mà trùng lặp cả với nhiệm vụ của các tổ chức tư vấn chuyên nghiệp và nhiệm vụ thường xuyên của các cơ quan tham mưu của cấp ủy và chính quyền.
Hai là, chuyển từ thành lập hội đồng tư vấn tuyển chọn danh mục nhiệm vụ KHCN theo khối gồm rất nhiều ngành sang thành lập hội đồng chuyên ngành hoặc một số ngành có quan hệ chuyên môn với nhau. Chuyển từ 02 ủy viên phản biện phản biện chung cho nhiều hồ sơ nhiệm vụ KHCN sang mỗi hoặc một số nhiệm vụ có quan hệ chuyên môn với nhau có 02 ủy viên phản biện. Việc này không nên quy định cứng mà nên để từng hội đồng phân công cụ thể. Để bảo đảm thời gian làm việc của hội đồng, nên chuyển từ đề xuất nhiệm vụ KHCN và xác định (tuyển chọn danh mục) từ 01 đợt thành 02-03 đợt trong năm.
Ba là, khi xác định danh mục nhiệm vụ KHCN đặt hàng cấp tỉnh, sản phẩm nhiệm vụ KHCN cấp tỉnh, đồng thời với sản phẩm báo cáo khoa học, quy trình công nghệ, cần xác định rõ cấp công bố khoa học, triển vọng đăng ký sáng chế, tiến bộ kỹ thuật hay chuyển hóa thành chủ trương, cơ chế, chính sách của tỉnh.
Bốn là, phần mềm chuyên dụng sàng lọc trùng lặp và đạo văn đã được áp dụng khá nhiều nơi đối với nhiệm vụ KHCN cấp quốc gia, cấp bộ, cấp quỹ Nafosted, cấp cơ sở và đang có xu hướng mở rộng. Nhiều cuộc thi chính luận ở cấp Trung ương cũng đã áp dụng. Đối với cấp tỉnh cũng cần sớm áp dụng phần mềm chuyên dụng để sàng lọc sự trùng lặp nhiệm vụ KHCN và sàng lọc đạo văn trong báo cáo tổng kết nhiệm vụ nghiên cứu. Thực hiện nghiêm chế độ gửi hồ sơ, kết quả nhiệm vụ KHCN các cấp vào cơ sở dữ liệu Trung tâm thông tin KHCN quốc gia để phục vụ tra cứu thường xuyên.
Cuối cùng, ngày 27/6/2025, Quốc hội ban hành Luật số 93/2025/QH15 Luật Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo; nhiều vấn đề cũng được Nghị định, Thông tư nghiên cứu cụ thể hóa, hướng dẫn thực hiện. Cấp tỉnh có thể chủ động rà soát, điều chỉnh hoặc chủ động kiến nghị với Bộ KHCN rà soát điều chỉnh, hướng dẫn thống nhất./.
Phan Đức Ngữ
Nguồn: https://sonla.dcs.vn/tin-tuc-su-kien/noi-dung/nhung-bat-cap-trong-xac-dinh-nhiem-vu-khoa-hoc-cong-nghe-cap-tinh-5605.html
Bình luận (0)