Võ miếu Huế, ở phường Hương Hồ, TP. Huế -Ảnh: N.L
Từ thời Lê sơ trở về trước, năm Thiên Phúc thứ 7 (986), chọn trong dân, lấy người nào trai tráng khỏe mạnh, biết võ nghệ sung vào quân ngũ. Năm Thiên Ứng Chính Bình thứ 10 (1241), đời Trần Thái Tông đã cho tuyển chọn người khỏe mạnh, biết võ nghệ sung làm quân với ba thứ bậc thượng, trung, hạ.
Đến năm thứ 10 (1241), triều đình quy định lệ chọn người có sức khoẻ, biết võ nghệ sung làm quân Thượng đô túc vệ. Đến đời Lê sơ, Lê Thái Tổ tổ chức tuyển tam quân, người nào tinh thông võ nghệ thì sung vào Thị vệ trong nội phủ.
Năm Thuận Thiên thứ hai (1429), sắc cho các quan văn, võ trong thiên hạ từ tứ phẩm trở xuống tổ chức thi chọn nhân tài. Văn thi thông kinh sử, võ thì thi thông võ kinh. Đến tháng 5 năm 1430, thí sinh tập trung ở Đông Kinh để khảo thí. Quan võ thì thi võ kinh và pháp lệnh kỳ thư.
Đến năm Lê Thái Tông thứ 4 (1437), vua cho tổ chức khảo thí xem xét trình độ võ nghệ của từng tướng hiệu. Phép thi gồm 3 môn: Bắn cung, ném lao, lăn khiên. Đến đời Lê Trung Hưng, hàng năm vẫn tổ chức giảng dạy và thi võ như trước.
Sự kiện được xem là khởi đầu cho việc học và thi võ cử ở nước ta chính là năm Bảo Thái thứ 2 (1721), khi chúa Trịnh Cương cho mở trường dạy võ và đặt chức quan Giáo thụ dạy cho con cháu quan lại học võ nghệ, võ kinh.
Tháng 10, năm Quý Mão, niên hiệu Bảo Thái thứ 4 (1723), bắt đầu bàn định mở khoa thi võ. Thi Sở cử là kỳ thi tổ chức ở các trấn để chọn người đỗ cho dự thi Bác cử tổ chức ở Kinh đô. Chỉ những người thi đỗ Sở cử mới được dự kỳ thi này và chỉ tổ chức một kỳ thi chứ không chia ra thi Hội và thi Điện. Trải qua 3 trường thi gồm lược vấn, võ nghệ và văn sách. Kỳ thi Sở cử đầu tiên tổ chức vào thời Lê là kỳ thi võ đầu tiên ở nước ta.
Đến tháng 9, năm Giáp Thìn (1724), chúa Trịnh Cương bắt đầu cho thi Bác cử. Người nào trúng cách thì được phong làm Tạo sĩ, tương đương với Tiến sĩ bên Văn khoa. Người nào đỗ 2 trường mà không đỗ trường ba, thì chọn lấy người nổi trội nhất trong số đó cho đỗ Tạo toát, hay còn gọi là Toát thủ, cũng cho bổ dụng ngang Tạo sĩ.
Trong 61 năm (1724-1785), triều Lê Trung Hưng tổ chức được 19 khoa thi, lấy đỗ 199 Tạo sĩ, trong đó có 59 Tạo sĩ xuất thân và 140 Đồng Tạo sĩ xuất thân.
Dưới triều Nguyễn, đến năm 1835, vua Minh Mạng mới cho xây Võ miếu, tại làng An Ninh, thuộc huyện Hương Trà, nay là phường Hương Hồ, TP. Huế. Vua ban dụ rằng: “Điều cốt yếu trị nước là cả văn lẫn võ, không thể riêng bỏ bên nào...
Huống chi bản triều từ khai quốc đến trung hưng, trong khoảng ấy những người bầy tôi bày mưu giúp sức, công liệt rực rỡ, không kém người xưa, đáng nên biểu dương để khuyến khích nhân tài”[1]. Dù chế độ văn trị được đề cao nhưng vua Minh Mạng vẫn quan tâm đến võ trị, xem đây là nhân tố quan trọng trong công cuộc dựng xây và bảo vệ đất nước.
Đến năm Thiệu Trị thứ 6 (1846), vua mới đặc cách cho mở Ân khoa đầu tiên. Kỳ thi này lấy đỗ 51 người, gọi là Võ cử nhân. Đây là khoa thi võ đầu tiên của triều Nguyễn. Đến năm Tự Đức thứ 18 (1865), bắt đầu mở khoa thi Võ Tiến sĩ.
Khoa thi này có 3 người đỗ Võ Tiến sĩ xuất thân và 6 người đỗ Võ Phó bảng. Khoa thi Võ Tiến sĩ dưới triều Nguyễn bắt đầu từ đây và học vị Võ Tiến sĩ cũng bắt đầu có từ khoa thi này.
Tuy nhiên, do sự can thiệp của thực dân Pháp nên từ năm Tự Đức thứ 33 (1880) các kỳ thi võ không còn được tổ chức. Ở triều Nguyễn tổ chức được 8 kỳ thi Hương võ, 7 khoa thi Hội võ và 3 kỳ thi Đình võ.
Tư liệu duy nhất ghi riêng về những người đỗ võ khoa, đó là cuốn Lê triều tạo sĩ đăng khoa lục, nghĩa là tài liệu ghi chép về những người đỗ Tạo sĩ, tức là đỗ kỳ thi Bác cử triều Lê. Đáng tiếc, do việc ghi chép thời bấy giờ không đầy đủ thông tin về quê quán, nên chưa thống kê được có bao nhiêu người quê Quảng Trị đỗ đạt về Võ khoa.
Đến triều Nguyễn, chỉ những người đỗ Võ tiến sĩ, Võ Phó bảng được sách Đại Nam thực lục ghi chép thông tin hết sức ngắn, gọn. Hai tấm bia ở Võ miếu khắc tên những Tiến sĩ Võ khoa trong các khoa thi năm Ất Sửu (1865), Mậu Thìn (1868), Kỷ Tỵ (1869) dưới triều Tự Đức.
Có 3 người đã làm rạng danh truyền thống võ cử tỉnh Quảng Trị. Đầu tiên là Võ Văn Lương, người xã Đâu Kính, tổng Bích La, huyện Đăng Xương, tức huyện Triệu Phong (cũ), nay là xã Triệu Phong. Năm 33 tuổi, ông thi Hội đỗ thứ nhì hạng trúng cách. Thi Đình đỗ Đệ tam giáp Đồng Võ Tiến sĩ xuất thân khoa thi Ất Sửu năm Tự Đức thứ 18 (1865).
Tiếp đến là Đỗ Văn Kiệt, người xã Bích Thụ, tổng Bích La, huyện Đăng Xương, tức huyện Triệu Phong (cũ), nay là xã Triệu Phong. Năm Tự Đức thứ 17 (1864), ông thi đỗ Võ cử. Năm 42 tuổi, ông thi Đình đỗ Đệ tam giáp Đồng Võ Tiến sĩ xuất thân khoa Mậu Thìn năm Tự Đức thứ 21 (1868).
Người thứ ba là Lê Trực, người làng Thanh Thuỷ, xã Tiến Hóa, huyện Tuyên Hóa (cũ), nay là xã Tuyên Hóa đỗ Đồng tiến sĩ xuất thân. Trên bia ghi tên Võ tiến sĩ ân khoa thi Hội năm Kỷ Tỵ niên hiệu Tự Đức 22 (1869) tại Võ miếu Huế chép “Cho đỗ Đệ tam giáp đồng Võ Tiến sĩ xuất thân 3 người...
Lê Văn Trực sinh năm Tân Sửu (1841). 29 tuổi đỗ. Người xã Thanh Thủy, tổng Thuận Lễ, huyện Minh Chính, phủ Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình. Năm Tự Đức 21 (1868) thi đỗ Võ cử. Hiện sung vào học tập ở Võ học đường. Thi Hội đỗ thứ nhì hạng trúng cách”[2].
Về sau, ông trở thành một trong những thủ lĩnh của phong trào Cần Vương. Khi vua Hàm Nghi bị bắt, ngày 1/11/1888, Lê Trực dẫn nghĩa quân ra hàng, kết thúc sự nghiệp lẫy lừng của một võ tướng.
Trải qua 138 năm, kể từ khoa thi võ đầu tiên năm Bảo Thái thứ 3 (1742) đến năm Tự Đức thứ 33 (1880), Võ cử nước ta có 209 người đỗ Tạo sĩ, Tiến sĩ và 110 đỗ Võ Phó bảng, kết thúc sớm hơn so với Văn khoa 40 năm. Trong đó, tỉnh Quảng Trị vinh dự đóng góp 3 Võ Tiến sĩ. Đây chính là niềm vinh dự, tự hào của mảnh đất giàu truyền thống yêu nước, con người đầy khí phách, gan dạ, nghị lực kiên cường và khát vọng cống hiến dựng xây đất nước.
Nhật Linh
[1] Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, NXB Hà Nội, Hà Nội, 2022, tập IV, tr.774.
[2] Nguyễn Thúy Nga, Võ cử và người đỗ võ khoa ở nước ta, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 2019, tr.255.
Nguồn: https://baoquangtri.vn/nhung-nguoi-lam-rang-danh-truyen-thong-vo-cu-quang-tri-196402.htm
Bình luận (0)