Theo khảo sát của ngành nông nghiệp và môi trường tỉnh, hiện nay vẫn còn khoảng 46% hộ dân nông thôn tại Lào Cai vẫn sử dụng các hình thức cấp nước nhỏ lẻ như giếng khoan, giếng đào, mó nước, bể chứa… Chất lượng nước ở nhiều nơi chỉ đạt mức hợp vệ sinh, chưa đáp ứng quy chuẩn nước sạch. Tỷ lệ người dân có thiết bị xử lý nước mới đạt hơn 16%, chủ yếu là ở vùng thuận lợi. Trong khi đó, hệ thống cấp nước tập trung của tỉnh hiện có hơn 1.100 công trình, nhưng phần lớn quy mô nhỏ, chỉ phục vụ cho từ 20 - 200 hộ dân; chỉ có khoảng 108 công trình quy mô lớn hơn. Tỷ lệ người dân được dùng nước sạch theo quy chuẩn năm 2025 ước đạt khoảng 17%.
Tại phường Trung Tâm, phường Cầu Thia, nước sạch từ cụm công trình cấp nước sinh hoạt do Công ty TNHH Tân Phú khai thác và quản lý hiện đang phục vụ hơn 2.000 hộ dân. Công trình sử dụng nguồn nước mặt từ suối Nậm Tăng, có công suất thiết kế gần 1.700 m³/ngày - đêm, được UBND tỉnh Yên Bái (cũ) phê duyệt vào tháng 6/2024 hiện nay đã phát huy hiệu quả, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân. Sau khi đưa vào khai thác, người dân ở đây rất phấn khởi vì có nguồn nước sạch để sử dụng.
Từ khi công trình đi vào hoạt động, đời sống sinh hoạt của người dân có chuyển biến rõ rệt, nhất là người dân không còn phải hằng ngày đi xách nước từ xa về sử dụng.
Chị Đinh Thị Thao ở Tổ dân phố Sang Đốm, phường Trung Tâm chia sẻ: “Trước đây, bà và mẹ tôi, thậm chí các em nhỏ đều phải đi vài cây số để lấy nước về dùng. Từ năm ngoái có nước sạch do nhà máy cung cấp, người dân trong tổ dân phố rất vui, giờ không còn phải đi xa lấy nước mà còn được dùng nước sạch phục vụ sinh hoạt hằng ngày”.
Sự tiện lợi, an toàn khi được sử dụng nước sạch khiến người dân tin tưởng hơn vào hệ thống cung cấp nước sạch tập trung. Tại những nơi có hệ thống nước sạch, người dân đã chủ động đăng ký đấu nối về sử dụng để bảo vệ sức khỏe, cải thiện chất lượng sinh hoạt hằng ngày.
Tuy vậy, hiện nay hệ thống cung cấp nước sạch về các thôn, bản vẫn đối mặt với nhiều hạn chế. Địa hình phức tạp khiến việc đầu tư công trình quy mô lớn gặp khó; thiên tai gây sạt lở, vùi lấp đường ống; nhiều công trình xuống cấp do thiếu kinh phí duy tu, bảo dưỡng; mô hình quản lý ở cấp xã chưa chuyên nghiệp, khiến hiệu quả vận hành không ổn định. Nhiều hộ dân vẫn giữ thói quen dùng nước suối, nước khe miễn phí nên chưa mặn mà với việc đấu nối nước máy...
Theo bà Phan Thị Thu Hiền - viên chức Phòng Nước sạch nông thôn, Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Lào Cai cho biết: "Khó khăn lớn nhất hiện nay là chất lượng nước tại các công trình nhỏ lẻ chưa đồng đều, nhiều công trình chưa được đầu tư thiết bị xử lý theo quy chuẩn mới. Ngoài ra, việc quản lý vận hành ở cơ sở chưa chuyên nghiệp nên công trình nhanh xuống cấp”.
Sau khi chính quyền địa phương 2 cấp đi vào hoạt động, căn cứ kết quả đạt được và mục tiêu phấn đấu trong các chương trình, đề án, kế hoạch hành động, cơ quan chuyên môn đã đề xuất mục tiêu nâng tỷ lệ dân số nông thôn được sử dụng nguồn nước hợp vệ sinh đạt 100% vào năm 2026 và duy trì tỷ lệ này đến năm 2030, trong đó trên 50% dân cư nông thôn được sử dụng nước sạch đạt quy chuẩn kỹ thuật địa phương.
Để đạt được mục tiêu trên, tỉnh dự kiến đầu tư mới và nâng cấp 177 công trình cấp nước tập trung với tổng mức đầu tư dự kiến trên 1.385 tỷ đồng. Tỉnh cũng ưu tiên đầu tư cho các công trình xuống cấp, mở rộng các mô hình cấp nước theo nguồn vốn chương trình mục tiêu quốc gia và các dự án liên quan. Những xã chưa đạt chỉ tiêu nước sạch theo Bộ tiêu chí nông thôn mới sẽ được quan tâm đặc biệt để sớm hoàn thành. Đồng thời triển khai quy hoạch mạng lưới cấp nước phù hợp đặc thù miền núi, ứng dụng công nghệ lọc nước tiên tiến, quan trắc chất lượng nước định kỳ để bảo đảm an toàn cho người dân.
Cùng với đó, sẽ lựa chọn mô hình quản lý, khai thác vận hành công trình cấp nước sinh hoạt tập trung nông thôn phù hợp; tăng cường mô hình quản lý chuyên nghiệp bởi các đơn vị sự nghiệp công lập, doanh nghiệp đảm bảo năng lực, kinh nghiệm trong sản xuất, kinh doanh nước sạch nhằm phát huy hiệu quả cấp nước bền vững. Thường xuyên tổ chức các lớp đào tạo, tập huấn cho đội ngũ vận hành tại cơ sở, nâng cao tay nghề, chất lượng nguồn nhân lực. Đẩy mạnh số hóa, chuyển đổi số, ứng dụng khoa học và công nghệ trong quản lý, theo dõi quản trị nhân lực, khách hàng và hệ thống cấp nước như: sử dụng phần mềm chuyên nghiệp, lắp đặt cảm biến đo lưu lượng, camera nguồn nước, phần mềm phản ánh sự cố...
Trong điều kiện nguồn lực còn hạn chế, việc bảo đảm đưa nước sạch đến với các thôn bản vùng cao rất cần sự kiên trì và phối hợp đồng bộ giữa các ngành, địa phương và cộng đồng. Hành trình đưa nước sạch đến từng thôn, bản còn dài, nhưng với sự vào cuộc của các cấp chính quyền, đơn vị quản lý các công trình và người dân, mục tiêu cải thiện chất lượng nước sinh hoạt và nâng cao chất lượng cuộc sống cho đồng bào vùng cao hoàn toàn đạt được trong thời gian tới.
Nguồn: https://baolaocai.vn/no-luc-dua-nuoc-sach-den-thon-ban-post888682.html






Bình luận (0)