Vietnam.vn - Nền tảng quảng bá Việt Nam

Sáp nhập đại học: Kinh nghiệm quốc tế và bài học cho Việt Nam

(Dân trí) - Việt Nam hiện có hơn 240 trường đại học nhưng thiếu những “đầu tàu” thực sự. Một nền giáo dục đại học manh mún, phân tán sẽ khó lòng hội nhập, càng khó có vị thế trong bảng xếp hạng quốc tế.

Báo Dân tríBáo Dân trí07/10/2025

Nghị quyết 71 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo đặt ra nhiệm vụ phải hiện đại hóa, nâng tầm giáo dục đại học, tạo đột phá phát triển nhân lực trình độ cao và nhân tài, dẫn dắt nghiên cứu, đổi mới sáng tạo.

Trong đó, sắp xếp, tái cấu trúc, sáp nhập các cơ sở giáo dục đại học là một trong những giải pháp trọng tâm.

Tại Hội nghị giáo dục đại học năm 2025, Bộ trưởng Bộ GD&ĐT Nguyễn Kim Sơn khẳng định, cuộc đại sắp xếp các cơ sở giáo dục lần này là một mệnh lệnh.

Đây là thời cơ, là thời vận, thời điểm để giáo dục đại học bứt phá. "Nếu không nắm được thời cơ, nắm lấy sức mạnh, nghĩa là chúng ta có lỗi", người đứng đầu ngành giáo dục nhấn mạnh.

Trước cuộc cách mạng về sắp xếp, sáp nhập các trường đại học, Báo Dân trí tổ chức tuyến bài với chủ đề: "Cuộc đại sắp xếp các trường đại học: Bước ngoặt lịch sử để đột phá phát triển".

Tuyến bài là bức tranh toàn cảnh về định hướng sắp xếp, tái cấu trúc và sáp nhập các trường đại học tại Việt Nam, mà ở đó, các chuyên gia đầu ngành sẽ tham gia phản biện, làm rõ những cơ hội đột phá phát triển cho giáo dục đại học và các thách thức cần chung tay giải quyết để cuộc cách mạng giáo dục đại học đi đến đích theo đúng tinh thần của Nghị quyết 71.

Trung Quốc và các quốc gia khác đã sáp nhập đại học như thế nào?

Trong hơn hai thập niên đầu thế kỷ XXI, giáo dục đại học đã trở thành một cấu phần cốt lõi trong chiến lược phát triển của hầu hết các quốc gia. Từ góc nhìn toàn cầu, có ba xu thế lớn đang chi phối vận hành và cải cách giáo dục đại học: một là xu thế đại học đa lĩnh vực, đa ngành, đa chức năng; hai là xu thế tập trung hóa và tái cấu trúc hệ thống thông qua sáp nhập hoặc liên kết; ba là xu thế gia tăng tự chủ đi kèm với trách nhiệm giải trình xã hội.

Ở châu Âu, tiến trình Bologna (sáng kiến cải cách giáo dục đại học của các nước Châu Âu) đã dẫn tới một không gian giáo dục đại học thống nhất, buộc các trường phải điều chỉnh mô hình đào tạo, cơ cấu quản trị và chiến lược phát triển. 

Nhiều quốc gia, tiêu biểu là Pháp, Đức và Hà Lan, đã thực hiện chính sách sáp nhập các trường đại học nhỏ hoặc phân tán để hình thành những đại học đa lĩnh vực đủ sức cạnh tranh quốc tế. 

Tại Pháp, sau cải cách 2007, nhiều trường đại học được khuyến khích liên kết và sáp nhập thành các “ComUE” (Cộng đồng các cơ sở đại học và viện nghiên cứu). Mục tiêu là tăng sức cạnh tranh trong nghiên cứu, tận dụng nguồn lực chung.

Ví dụ Đại học Paris-Saclay, hình thành từ hơn 20 trường và viện nghiên cứu, được Chính phủ Pháp ưu tiên đầu tư mạnh, hướng đến trở thành “Stanford của châu Âu”. Ngôi trường này hiện đã nằm trong top 15 thế giới về Khoa học tự nhiên nhờ có chiến lược rõ ràng, nguồn lực tài chính tập trung và cơ chế tự chủ học thuật cao.

Nước Đức lại có cách làm khác. Họ không sáp nhập đại học ồ ạt mà theo cơ chế “Exzellenzinitiative” (Sáng kiến xuất sắc) để khuyến khích hợp tác, liên kết nghiên cứu giữa các đại học.

Một số bang tiến hành sáp nhập nhỏ lẻ để giảm chi phí hành chính, nhưng luôn giữ nguyên cơ chế tự chủ và bản sắc học thuật của từng đơn vị. Bài học từ nước Đức cho thấy không nhất thiết phải sáp nhập bằng mệnh lệnh, mà có thể khuyến khích liên minh chiến lược giữa các trường.

Tại Trung Quốc, trong thập niên 1990, một làn sóng sáp nhập đại học đã được tiến hành để thành lập các đại học đa lĩnh vực lớn. Hơn 400 cơ sở đã được hợp nhất, hình thành những đại học quy mô 30.000-40.000 sinh viên với nhiều ngành nghề đào tạo.

Ví dụ, Đại học Bắc Kinh sáp nhập Đại học Y Bắc Kinh (2000), Đại học Phúc Đán sáp nhập Đại học Y Thượng Hải (2000). Mục tiêu sáp nhập các trường này là làm tăng thứ hạng quốc tế, hình thành trung tâm đào tạo - nghiên cứu liên ngành, đủ sức cạnh tranh toàn cầu.

Kết quả là nhiều trường đại học Trung Quốc tiến bộ nhanh, lọt top 100 thế giới. Tuy nhiên, cũng có hiện tượng quan liêu hóa, bộ máy cồng kềnh, mâu thuẫn nội bộ chưa giải quyết triệt để.

Singapore với mô hình ít trường nhưng tinh gọn, định vị quốc tế, đã hình thành đại học như Đại học Quốc gia Singapore hay Đại học Công nghệ Nanyang, đều là sản phẩm của quá trình tái cấu trúc và sáp nhập.

Sáp nhập đại học: Kinh nghiệm quốc tế và bài học cho Việt Nam - 1

Sinh viên Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật TPHCM đón Chủ tịch Quốc hội Cuba tới thăm và làm việc (Ảnh: HCMUTE).

Quay trở lại Việt Nam, giáo dục đại học không thể đứng ngoài các xu thế nói trên. Một nền giáo dục đại học manh mún, phân tán sẽ khó lòng hội nhập, càng khó có vị thế trong bảng xếp hạng quốc tế.

Hiện Việt Nam có hơn 240 trường đại học và gần 400 trường cao đẳng. Phần lớn các cơ sở này có quy mô nhỏ, phạm vi hoạt động hẹp, chất lượng đào tạo và nghiên cứu chưa đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. 

Nhiều trường được thành lập trên cơ sở nâng cấp từ cao đẳng, nhưng thiếu nền tảng quản trị đại học hiện đại. Các trường trong cùng một địa phương hoặc cùng ngành nghề thường đào tạo những chuyên ngành tương tự, dẫn đến cạnh tranh không lành mạnh và lãng phí nguồn lực.

Rõ ràng, ngoại trừ một vài đại học lớn (Đại học Quốc gia, Đại học Bách khoa Hà Nội, ĐH Y Hà Nội, v.v.), đa số các trường Việt Nam chưa có tên tuổi trong khu vực, chưa nói đến quốc tế. Trong khi các quốc gia láng giềng đã có những đại học lọt top 100, 200 thế giới, Việt Nam vẫn loay hoay trong bảng xếp hạng khu vực.

Nếu tiếp tục duy trì hiện trạng, giáo dục đại học Việt Nam sẽ đối mặt với những hệ lụy nghiêm trọng. Việc sáp nhập các trường đại học nhỏ, phân tán để hình thành các đại học đa lĩnh vực là yêu cầu mang tính bắt buộc, không chỉ là một lựa chọn.

5 nguyên tắc để sáp nhập đại học không biến thành cuộc “hành chính hoá”

Để quá trình sáp nhập đại học không biến thành một cuộc “hành chính hóa” máy móc, gây xáo trộn và phản ứng tiêu cực trong xã hội, cần xác lập rõ 5 nguyên tắc nền tảng.

Một là nguyên tắc vì lợi ích công, sáp nhập không nhằm giảm số lượng cơ sở đào tạo cho có, mà nhằm tối ưu hóa nguồn lực, nâng cao chất lượng đào tạo và nghiên cứu, phục vụ tốt hơn nhu cầu của người học và xã hội.

Hai là nguyên tắc tôn trọng tự chủ đại học, mỗi trường tham gia sáp nhập phải được tham khảo ý kiến đầy đủ, có quyền tham gia thiết kế mô hình mới, đảm bảo không triệt tiêu bản sắc học thuật.

Ba là nguyên tắc minh bạch và giải trình, quá trình sáp nhập phải công khai thông tin, giải thích rõ lý do, tiêu chí, lộ trình; tránh tình trạng áp đặt hành chính, gây hoang mang cho giảng viên, sinh viên.

Bốn là nguyên tắc hài hòa lợi ích, sáp nhập phải tính đến lợi ích của nhiều bên: Nhà nước, nhà trường, giảng viên, sinh viên, cộng đồng địa phương. Nếu chỉ thiên về lợi ích quản lý, bỏ qua lợi ích học thuật và xã hội, quá trình sẽ thất bại.

Năm là nguyên tắc từng bước, có lộ trình, không nên tiến hành “sáp nhập một phát ăn ngay”, mà cần thử nghiệm, đánh giá, điều chỉnh, tránh gây sốc và lãng phí nguồn lực.

Từ các nguyên tắc nền tảng vừa nêu, tiêu chí lựa chọn trường để sáp nhập cần dựa trên những tiêu chí khoa học, chặt chẽ, nhằm hình thành các đại học đa lĩnh vực bền vững.

Trước hết, cần đảm bảo tiêu chí địa lý, ưu tiên sáp nhập các trường có cùng địa bàn, nhằm tận dụng hạ tầng chung, giảm chi phí quản lý. Tiếp đó, nên sáp nhập các trường có ngành đào tạo bổ sung cho nhau, tránh sáp nhập cơ học giữa các trường có ngành nghề trùng lặp quá nhiều, dễ dẫn đến xung đột và dư thừa nhân lực.

Sáp nhập đại học: Kinh nghiệm quốc tế và bài học cho Việt Nam - 2
Sáp nhập đại học: Kinh nghiệm quốc tế và bài học cho Việt Nam - 3

Tiêu chí khác cần phải xem xét là năng lực nghiên cứu và đào tạo, nên sáp nhập các trường cùng sứ mệnh nhưng có thế mạnh khác nhau, ví dụ như một trường mạnh về kỹ thuật sáp nhập với một trường mạnh về kinh tế - xã hội. Điều này giúp hình thành những đại học có năng lực liên ngành, dễ dàng tham gia vào các chương trình nghiên cứu quốc gia và quốc tế.

Bên cạnh đó, tiêu chí quy mô rất quan trọng, các trường có quy mô quá nhỏ (dưới 3.000 sinh viên) nên xem xét sáp nhập để tận dụng nguồn lực.

Cuối cùng là tính chiến lược quốc gia, nên ưu tiên hình thành những đại học nghiên cứu đẳng cấp khu vực và quốc tế ở các trung tâm kinh tế - chính trị - xã hội của đất nước. Mỗi vùng kinh tế nên có ít nhất một đại học đa lĩnh vực, quy mô đủ lớn, vừa phục vụ nhu cầu nhân lực địa phương, vừa từng bước hội nhập quốc tế. Mỗi tỉnh nên có ít nhất một đại học đa lĩnh vực - đa cấp kiểu đại học cộng đồng, có quy mô hợp lý, vừa phục vụ nhu cầu nhân lực trưc tiếp cho tỉnh vừa góp phần nâng cao mặt bằng dân trí của cộng đồng địa phương.

Sáp nhập là phép thử với năng lực cải cách thể chế giáo dục đại học

Quá trình sáp nhập và tái cấu trúc các trường đại học ở Việt Nam không chỉ là một biện pháp kỹ thuật về tổ chức mà còn là một phép thử đối với năng lực cải cách thể chế giáo dục đại học. 

Thực tiễn quốc tế cho thấy, việc xây dựng các đại học đa lĩnh vực quy mô lớn có thể mang lại lợi thế cạnh tranh rõ rệt về nguồn lực, thương hiệu và chất lượng đào tạo. Tuy nhiên, những lợi thế đó chỉ có thể phát huy khi đi kèm với một cơ chế quản trị hiện đại, minh bạch và thực sự tôn trọng quyền tự chủ học thuật.

Nếu tiến trình sáp nhập chỉ được thực hiện bằng mệnh lệnh hành chính, thiếu đối thoại, thiếu cơ chế bảo vệ quyền lợi chính đáng của giảng viên và sinh viên, thì hệ quả có thể là một “đại học hình thức”: quy mô lớn nhưng thiếu sức sống, thống nhất trên danh nghĩa nhưng rời rạc trong thực chất. 

Ngược lại, nếu sáp nhập đi đôi với thiết lập cơ chế quản trị mới dựa trên hội đồng trường thực quyền, trách nhiệm giải trình, và bảo đảm lợi ích chung, thì đây có thể trở thành cơ hội lịch sử để đưa đại học Việt Nam thoát khỏi tình trạng phân tán, manh mún, tiến gần hơn tới chuẩn mực quốc tế.

Trách nhiệm của Nhà nước trong giai đoạn này là kiến tạo khung pháp lý, bảo đảm công bằng và giám sát lợi ích công. Trách nhiệm của giới đại học là dám chấp nhận thay đổi, đặt lợi ích quốc gia và cộng đồng học thuật lên trên lợi ích cục bộ. Và trách nhiệm của toàn xã hội là giám sát, phản biện, đồng hành, để quá trình cải cách không bị chệch hướng bởi sức ép lợi ích nhóm.

TS Lê Viết Khuyến

Phó chủ tịch Hiệp hội các trường đại học, cao đẳng Việt Nam,

Nguyên Phó Vụ trưởng Vụ Giáo dục đại học, Bộ GD&ĐT

Nguồn: https://dantri.com.vn/giao-duc/sap-nhap-dai-hoc-kinh-nghiem-quoc-te-va-bai-hoc-cho-viet-nam-20251006185516112.htm


Bình luận (0)

No data
No data

Cùng chủ đề

Cùng chuyên mục

Tái hiện Trung thu cung đình thời Lý tại Hoàng thành Thăng Long
Khách Tây thích thú mua đồ chơi Trung thu phố Hàng Mã về tặng con, cháu
Phố Hàng Mã rực rỡ sắc màu Trung thu, giới trẻ nô nức check-in không ngớt
Thông điệp lịch sử: Mộc bản chùa Vĩnh Nghiêm - di sản tư liệu của nhân loại

Cùng tác giả

Di sản

Nhân vật

Doanh nghiệp

No videos available

Thời sự

Hệ thống Chính trị

Địa phương

Sản phẩm