Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học-công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số đã định hướng rõ, phát triển công nghệ cao gắn với công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Nghị quyết đặt ra yêu cầu hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách để tạo điều kiện thuận lợi cho nghiên cứu, phát triển, ứng dụng và chuyển giao công nghệ cao.
Luật Công nghệ cao được Quốc hội ban hành từ năm 2008, là đạo luật đầu tiên và duy nhất điều chỉnh về công nghệ cao tại Việt Nam. Tuy nhiên, nhiều quy định trong đó đã lỗi thời, thiếu đồng bộ với pháp luật chuyên ngành, không thể thực hiện được hoặc không còn phù hợp với thực tiễn.
Trong khi đó, hệ thống pháp luật về khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đang được điều chỉnh toàn diện với kim chỉ nam là Nghị quyết 57, đòi hỏi Luật này phải sửa đổi để bảo đảm thống nhất, đồng bộ và tạo nền tảng pháp lý cho phát triển.
Sửa đổi Luật Công nghệ cao để thể chế hóa tinh thần của Nghị quyết, qua đó tạo hành lang pháp lý minh bạch, ổn định và hấp dẫn đối với các hoạt động đầu tư, sản xuất, kinh doanh trong lĩnh vực công nghệ cao.
Tạo hành lang pháp lý cho công nghệ chiến lược
Dự thảo Luật Công nghệ cao (sửa đổi) gồm 6 chương và 27 điều, giảm 8 điều và có sự thay đổi về cấu trúc, hình thức so với Luật hiện hành, gồm 6 nhóm chính sách là hoàn thiện khái niệm và tiêu chí về công nghệ cao; thiết kế lại hệ thống các chính sách và đối tượng hưởng chính sách ưu tiên, ưu đãi, hỗ trợ đầu tư; khuyến khích phát triển hệ sinh thái công nghệ cao; bổ sung quy định về các mô hình khu công nghệ cao, đô thị công nghệ cao; bổ sung và hoàn thiện các quy định quản lý nhà nước về công nghệ cao, cơ chế quản lý, kiểm tra, giám sát và đánh giá hiệu quả; bổ sung các quy định về yêu cầu chuyển đổi số toàn diện hoạt động công nghệ cao.
Dự thảo Luật Công nghệ cao (sửa đổi) cũng bổ sung một chương riêng về phát triển công nghệ chiến lược, quy định từ nghiên cứu, thử nghiệm, ứng dụng, thương mại hóa, chuyển giao đến thu hút và phát triển nhân lực chất lượng cao. Cùng với đó, dự thảo quy định chuyển đổi số toàn diện hoạt động công nghệ cao, bao gồm số hóa dữ liệu, hạ tầng, chính sách liên quan để vận hành trên nền tảng số và hệ thống quản trị thông minh. Đáng chú ý, dự thảo bổ sung quy định về phát triển đô thị công nghệ cao là nơi có khu công nghệ cao làm hạt nhân, được quy hoạch, đầu tư hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội đồng bộ, cơ chế quản trị hiện đại nhằm bảo đảm điều kiện sống, làm việc và sáng tạo hiện đại, bền vững để phát triển hệ sinh thái công nghệ cao.
Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Nguyễn Mạnh Hùng cho biết Dự án Luật Công nghệ cao (sửa đổi) tạo hành lang pháp lý thuận lợi để phát triển công nghệ cao, đặc biệt là công nghệ chiến lược; hoàn thiện chính sách coi công nghệ cao, công nghệ chiến lược là một trong những đột phá chiến lược để phát triển kinh tế-xã hội và tự chủ công nghệ của Việt Nam; hoàn thiện chính sách ưu đãi và cơ chế hỗ trợ gắn với tính hiệu quả linh hoạt trong hỗ trợ các khu công nghệ cao thế hệ mới. Quan điểm xây dựng dự thảo Luật là cụ thể hóa đường lối của Đảng, đưa công nghệ cao, công nghệ chiến lược trở thành một trong những động lực chính để phát triển đất nước.
Dự thảo Luật bám sát xu thế công nghệ chiến lược quốc gia và yêu cầu thực tiễn để tạo hành lang pháp lý hiệu quả; học hỏi kinh nghiệm quốc tế cho việc xây dựng chính sách phát triển công nghệ cao, áp dụng phù hợp với điều kiện của Việt Nam; giữ lại các quy định hiệu quả của luật hiện hành, điều chỉnh, bổ sung mới để đảm bảo tính ổn định và cập nhật của hệ thống luật pháp; có bố cục logic rõ ràng, dễ áp dụng và nâng cao hiệu quả quản lý.
Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng phân tích, dự thảo Luật Công nghệ cao (sửa đổi) xác định các loại công nghệ và sản phẩm công nghệ cần được ưu tiên phát triển. Công nghệ cao không chỉ là lĩnh vực ưu đãi đầu tư, mà còn là trụ cột chiến lược về kinh tế, quốc phòng, an ninh và năng lực cạnh tranh quốc gia, công nghệ cao còn là chủ quyền quốc gia.
“Đây là thay đổi nhận thức của Đảng ta, Việt Nam đã công bố danh mục 11 nhóm công nghệ chiến lược mà Việt Nam phải làm chủ. Đây cũng là tuyên ngôn về tự chủ, tự cường của Việt Nam về công nghệ," Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng chia sẻ.
Khẳng định Luật Công nghệ cao được sửa đổi nhằm thể chế hóa các quan điểm trên, Bộ trưởng cho rằng, Dự thảo đã phân ra các loại công nghệ cao, công nghệ chiến lược, công nghệ lõi để quản lý phát triển. Các cơ chế, chính sách đối với công nghệ cao tại luật hiện hành sẽ tiếp tục được duy trì và tăng thêm các ưu đãi nếu FDI tăng tỷ lệ nội địa hóa chuyển giao công nghệ có hoạt động nghiên cứu phát triển tại Việt Nam.
“Luật Công nghệ cao (sửa đổi) cũng sẽ xây dựng các chính sách đặc biệt để thúc đẩy mạnh mẽ tự chủ công nghệ chiến lược như giao nhiệm vụ trực tiếp, cơ chế đặc thù trong giải mã, mua bí quyết công nghệ, thiết lập khu thí nghiệm đặc biệt riêng cho công nghệ chiến lược và mua sắm đặc biệt công nghệ chiến lược và sản phẩm chiến lược," Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng cho biết.
Bước cụ thể hóa Nghị quyết 57
Đánh giá sâu hơn về dự thảo Luật Công nghệ cao, Phó Giáo sư, Tiến sỹ Vũ Hải Quân, Thứ trưởng Thường trực Bộ Khoa học và Công nghệ cho rằng việc sửa đổi Luật Công nghệ cao không chỉ để khắc phục hạn chế mà còn nhằm cụ thể hóa các chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước, đặc biệt là Nghị quyết 57-NQ/TW. Việc sửa đổi cũng tạo hành lang pháp lý minh bạch, ổn định và hấp dẫn cho hoạt động đầu tư, sản xuất, kinh doanh trong lĩnh vực công nghệ cao, đồng thời nâng cao năng lực công nghệ nội sinh, hướng tới cạnh tranh toàn cầu.
Qua hơn 16 năm triển khai, Luật Công nghệ cao đã bộc lộ nhiều bất cập, đặt ra nhu cầu cấp thiết phải sửa đổi. Hiện, số lượng doanh nghiệp công nghệ cao trong nước vẫn còn ít và về cơ bản Việt Nam chưa làm chủ được các công nghệ nền ở những lĩnh vực then chốt.
Trong khi đó, doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào nhiều nhưng hàm lượng công nghệ còn thấp, chủ yếu tập trung vào khâu gia công, cấp phép; chưa có chính sách đủ mạnh để thúc đẩy doanh nghiệp Việt tham gia sâu vào chuỗi cung ứng. Hiệu quả hoạt động của các khu công nghệ cao còn hạn chế. Điển hình như Khu công nghệ cao Hòa Lạc gặp trở ngại về hạ tầng giao thông, khiến việc kết nối, nghiên cứu và triển khai ứng dụng gặp khó khăn.
Các phòng thí nghiệm trọng điểm ở trường đại học tuy đã hình thành nhưng chưa có cơ chế vận hành bền vững do chi phí duy trì và phát triển rất cao, đặc biệt trong dài hạn. Ngoài ra, sự thiếu đồng bộ của hệ thống pháp luật cũng là rào cản lớn. Luật Công nghệ cao hiện nay còn vướng mắc, chồng chéo với nhiều luật khác như: Luật Quy hoạch, Luật Đấu thầu, Luật Quản lý, sử dụng tài sản công… làm chậm quá trình triển khai và phát triển.
Góp ý vào dự thảo Luật Công nghệ cao (sửa đổi), Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Thanh đánh giá, dự thảo đã xác định danh mục công nghệ chiến lược mang tính đột phá, nền tảng cho quốc phòng an ninh, khơi dậy vai trò của khu vực tư nhân. Đồng thời, dự thảo xây dựng được hệ sinh thái công nghệ cao toàn diện, gắn kết được khu vực công và tư, trong nước và quốc tế, tuy nhiên, cần có chính sách vượt trội về nhân lực, trọng dụng chuyên gia, nhà khoa học, người Việt Nam ở nước ngoài và coi đây là tài sản quốc gia.
Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Thanh cũng đề nghị làm rõ các công cụ chính sách, nguồn lực, cơ chế phối hợp để đảm bảo tính khả thi và hiệu quả trong tổ chức thực hiện việc đơn giản hóa thủ tục hành chính, tăng cường cơ chế hậu kiểm và thu hút nguồn lực đầu tư phát triển công nghệ cao ngoài ngân sách nhà nước.
Về chính sách nghiên cứu và phát triển công nghệ chiến lược, Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Thanh cho rằng dự thảo Luật cần nghiên cứu quy định bố trí tỷ lệ chi ngân sách Nhà nước cho hoạt động nghiên cứu và phát triển công nghệ chiến lược, tránh chồng chéo với Luật Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo.
Theo Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Tây Ninh Nguyễn Đình Xuân, Luật Công nghệ cao (sửa đổi) có nhiều ưu điểm so với luật hiện hành; tạo ra hành lang pháp lý rõ hơn về khu công nghệ cao; có thêm cơ chế ưu đãi về thuế, đất đai tạo nền tảng cho việc phát triển nhân lực. Tuy nhiên, Luật (sửa đổi) cần làm rõ khái niệm sản phẩm công nghệ cao, cần quy định rõ tỷ lệ giá trị sản phẩm công nghệ cao, cần có thêm cơ chế để công nhận quốc tế để xuất khẩu, cạnh tranh thương mại.
Dự kiến, Dự thảo Luật Công nghệ cao (sửa đổi) sẽ được xem xét thông qua tại Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV, từ đó, tạo ra khuôn khổ pháp lý hiện đại, đồng bộ, trở thành động lực quan trọng thúc đẩy tự chủ công nghệ, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia và hiện thực hóa mục tiêu phát triển mà Nghị quyết 57 đã đề ra./.
Nguồn: https://www.vietnamplus.vn/sua-doi-luat-cong-nghe-cao-giup-phat-trien-cong-nghe-chien-luoc-post1078927.vnp






Bình luận (0)