Trong suốt chiều dài lịch sử nông nghiệp Việt Nam, hiếm có giai đoạn nào mang dấu ấn mạnh mẽ như “cuộc cách mạng xanh” diễn ra giữa những năm tháng chiến tranh và nghèo đói. Trên những cánh đồng đầy bom cày đạn xới, các nhà khoa học và nông dân Việt đã tạo ra những giống lúa ngắn ngày, kháng sâu bệnh, năng suất cao - nền tảng cho hành trình tự chủ lương thực sau này.
Những năm 1960-1970, ở miền Bắc, chiến tranh phá hoại khiến ruộng đồng tan hoang. Vật tư nông nghiệp khan hiếm, phân bón hầu như chỉ có loại truyền thống, máy móc không đủ, giống cũ dễ đổ ngã, nhiễm bệnh đạo ôn và rầy nâu.
Nông dân thu hoạch lúa xuân. Ảnh: TL.
Giữa hoàn cảnh đó, một nhóm kỹ sư nông nghiệp ở Viện Cây lương thực và Cây thực phẩm bắt đầu nghiên cứu các tổ hợp lai có thời gian sinh trưởng ngắn, chịu được điều kiện bất lợi. Ở miền Nam, những kỹ sư lúa ở vùng Ba Thắc (Sóc Trăng - nay là TP Cần Thơ) âm thầm làm việc trong vùng căn cứ kháng chiến, đem giống lúa Nhật về lai với giống địa phương. Kết quả là sự ra đời của giống Ba Thắc - Nhật, hay còn gọi tắt là “lúa ngắn ngày miền Tây”, cho phép canh tác hai vụ thay vì một vụ như trước.
Đó là bước ngoặt lớn về mặt sinh học. Trong điều kiện chiến tranh, việc có được một giống lúa trổ nhanh, gặt sớm, kháng sâu, chịu phèn mặn đã giúp người dân chủ động hơn trong sản xuất. Không ít nhà nghiên cứu gọi giống lúa ấy là “hạt giống của sinh tồn”, vì nó cứu hàng vạn hộ dân miền Tây khỏi cảnh thiếu đói.
Những năm 1970, phong trào nhân rộng lúa ngắn ngày lan dần ra miền Trung, rồi tới các tỉnh phía Bắc. Năng suất trung bình quốc gia, từ mức 2,7 tấn/ha đầu thập kỷ 1970, đã tăng lên hơn 3,5 tấn/ha vào cuối thập kỷ 1980.
Từ đó, thuật ngữ “cách mạng xanh” bắt đầu được nhắc đến trong nông nghiệp Việt Nam, không phải sao chép mô hình của Ấn Độ hay Philippines, mà là một cuộc cách mạng tự thân. “Xanh” không đơn thuần vì giống mới, mà còn vì thay đổi tư duy canh tác, kết hợp khoa học với thực tiễn, kết hợp nghiên cứu với người nông dân.
Một loạt viện nghiên cứu được thành lập, như Viện Di truyền Nông nghiệp, Viện Lúa Đồng bằng sông Cửu Long... và phát triển mạnh mẽ, tạo nên mạng lưới nghiên cứu từ Bắc vào Nam.
Bên cạnh lúa, khái niệm “vụ Đông” ra đời - một phát kiến mang đậm dấu ấn Việt Nam. Trên nền đất hai vụ lúa, nông dân miền Bắc bắt đầu thử nghiệm trồng cây vụ ba: ngô, khoai, đậu, rau màu. Chính “vụ Đông” này giúp tăng thêm hàng triệu tấn lương thực mỗi năm, giảm sức ép thiếu đói và mở rộng hướng canh tác hàng hóa. Nhiều chuyên gia quốc tế đánh giá, đó là một trong những hình mẫu thành công sớm của việc “tăng vụ nhờ sáng tạo nội sinh”, chứ không hoàn toàn nhờ nhập công nghệ từ bên ngoài.
Sau năm 1975, dù đất nước còn chồng chất khó khăn, các viện nghiên cứu vẫn tiếp tục hành trình âm thầm. Hàng loạt giống lúa năng suất cao như CR203, DT10, OM80, OM1490 lần lượt ra đời, giúp giảm thời gian sinh trưởng từ 160-170 ngày xuống còn 110-120 ngày. Ở vùng đất phèn Đồng Tháp Mười, nhiều mô hình canh tác ba vụ lúa bắt đầu hình thành, đặt nền cho “vựa lúa quốc gia” sau này.
Vụ Đông ở miền Bắc giúp người nông dân có thêm thực phẩm và thu nhập. Ảnh: TL.
Theo thống kê của Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật, từ năm 1980 đến 1990, năng suất lúa cả nước tăng trung bình 3,2%/năm - mức tăng hiếm có trong lịch sử sản xuất nông nghiệp. Ở nhiều nơi, đặc biệt là miền Tây Nam bộ, năng suất đạt 5-6 tấn/ha, gấp đôi so với giai đoạn trước. Đây chính là “lợi nhuận” của tri thức khoa học, điều mà nông dân Việt Nam đã làm được ngay cả trong hoàn cảnh thiếu thốn.
Cuộc cách mạng xanh không chỉ là chuyện của giống lúa, mà còn là câu chuyện về con người. Những cán bộ nông nghiệp như Giáo sư Bùi Huy Đáp, Trần Văn Khánh, Lê Văn Khoa, hay những kỹ sư trẻ thời ấy đã mang tri thức đến từng cánh đồng, hướng dẫn nông dân cách gieo sạ thưa, bón phân cân đối, phòng trừ sâu bệnh tổng hợp. Từ đó hình thành một thế hệ nông dân “biết làm khoa học”, tiền đề cho công cuộc đổi mới sau này.
Đến thập niên 1990, khi đất nước bước vào cơ chế thị trường, cuộc cách mạng xanh vẫn tiếp tục tiến hóa. Từ nền tảng giống ngắn ngày, các viện trường Việt Nam bắt đầu chọn tạo những giống lúa có phẩm chất cao hơn, phù hợp nhu cầu xuất khẩu. Các dòng OM5451, OM18, ST5, ST20 rồi ST24, ST25 sau này là kết tinh của cả chặng đường ấy. Nhiều giống trong nước không chỉ năng suất cao mà còn đạt hương vị, độ dẻo, độ thơm sánh ngang gạo Thái Lan, minh chứng rõ nét cho khả năng sáng tạo bền bỉ của nhà khoa học Việt.
Theo Bộ Nông nghiệp và Môi trường, hiện nay Việt Nam đã tự chủ được gần như toàn bộ nguồn giống lúa thương mại, với hơn 260 giống được công nhận. Mỗi năm, hệ thống viện, trường cung cấp hàng nghìn tấn giống siêu nguyên chủng cho các doanh nghiệp và hợp tác xã, đảm bảo nguồn vật liệu sạch bệnh, ổn định chất lượng.
Không chỉ dừng ở năng suất, thế hệ giống mới còn hướng tới giảm phát thải, thích ứng biến đổi khí hậu, tiết kiệm nước, tiếp nối tinh thần “xanh” của thế hệ đi trước bằng công nghệ sinh học hiện đại.
Nhìn lại cánh đồng Ba Thắc năm 1972, nơi người kỹ sư trẻ cắm cúi đo bông lúa dưới làn bom, đến những thửa ruộng rộng mênh mông hôm nay phủ kín lúa thơm ST25 chuẩn xuất khẩu, có thể thấy rõ một sợi chỉ đỏ xuyên suốt: tri thức đã làm nên kỳ tích. Cuộc cách mạng xanh trong trồng lúa Việt Nam, khởi nguồn từ chiến tranh, đã trở thành nền tảng của một nền nông nghiệp tự cường.
Giữa thời đại mà thế giới nói nhiều về chuyển đổi xanh và nông nghiệp phát thải thấp, câu chuyện của lúa Việt vẫn có sức vang riêng. Bởi trước khi “xanh” trở thành khẩu hiệu trên bàn hội nghị, nông dân Việt Nam đã làm điều đó từ hàng chục năm trước: tạo giống thích nghi, tiết kiệm tài nguyên, chống chọi thiên tai bằng kinh nghiệm, khoa học và ý chí tự lực, tự cường.
Nhân kỷ niệm 80 năm Ngày Nông nghiệp và Môi trường và Đại hội Thi đua yêu nước lần thứ I, Bộ Nông nghiệp và Môi trường tổ chức chuỗi sự kiện kéo dài từ tháng 7 đến tháng 12/2025. Trong đó trọng tâm là lễ Kỷ niệm 80 năm ngành Nông nghiệp và Môi trường và Đại hội Thi đua yêu nước lần thứ I, dự kiến tổ chức sáng 12/11/2025 tại Trung tâm Hội nghị Quốc gia (Hà Nội) với hơn 1.200 đại biểu tham dự, gồm lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Quốc hội, Chính phủ; nguyên lãnh đạo Bộ, đại diện các tổ chức quốc tế và các điển hình tiên tiến trong toàn ngành.
Nguồn: https://nongnghiepmoitruong.vn/tri-thuc-nay-mam-trong-gian-kho-khoi-nguon-cho-cach-mang-xanh-d782725.html






Bình luận (0)