Vai trò thay đổi
PGS.TS Bùi Đình Hợi - giảng viên Khoa Vật lí, Trường Đại học Sư phạm (Đại học Huế) nhận định, trí tuệ nhân tạo (AI) đang thay đổi mạnh mẽ cách chúng ta dạy và học. Tuy nhiên, vai trò của người thầy không mất đi, mà đang được “tái định nghĩa”.
Nếu trước đây, thầy cô chủ yếu truyền đạt kiến thức, thì nay trở thành người dẫn dắt quá trình học tập, giúp học sinh biết tư duy, lựa chọn và đánh giá thông tin trong một thế giới đầy dữ liệu. Người thầy còn nuôi dưỡng cảm xúc học tập, khơi dậy đam mê, rèn luyện nhân cách, giá trị sống. AI có thể dạy học trò “cái biết”, nhưng chỉ con người mới có thể dạy “cách làm người”.
Trong bối cảnh AI có thể hỗ trợ soạn giáo án, kiểm tra, đánh giá, thậm chí giảng dạy, PGS.TS Bùi Đình Hợi cho rằng, giá trị cốt lõi không thể thay thế người thầy chính là tính nhân văn và khả năng kết nối con người. AI rất giỏi xử lý thông tin, nhưng không có sự đồng cảm, lòng trắc ẩn hay tình yêu thương như một người thầy dành cho học trò.
Chỉ có người thầy, bằng sự quan tâm và lòng yêu nghề mới nắm bắt được điểm mạnh, điểm yếu, cũng như hoàn cảnh, tâm tư của mỗi học trò mà mình trực tiếp dạy dỗ. Bên cạnh đó, người thầy không chỉ dạy kiến thức mà còn truyền cảm hứng, khơi gợi niềm tin, giúp học trò nhận ra giá trị của chính mình. Có thể nói, AI giúp học trò giỏi hơn, nhưng chỉ người thầy mới giúp học trò trở thành người tốt hơn.
Cùng quan điểm, PGS.TS Trần Thành Nam - Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Giáo dục (Đại học Quốc gia Hà Nội) khẳng định, kỷ nguyên AI là cơ hội để nghề giáo quay về với giá trị cốt lõi của giáo dục. Vai trò của giáo viên chuyển từ thuyết giảng truyền thống sang “kiến tạo hành trình học tập”, “định hướng cảm xúc” và “truyền cảm hứng”. AI đã và đang làm thay đổi quan hệ truyền thống “thầy - trò” thành mô hình “thầy - AI – trò”; đòi hỏi giáo viên hợp tác với AI, tận dụng được sức mạnh của AI một cách hiệu quả.
“Giá trị cốt lõi của người thầy máy móc không bao giờ thay thế được, đặc biệt ở nhiệm vụ “dạy người”. Giáo viên bồi dưỡng nhân cách, truyền cảm hứng và uốn nắn học sinh bằng chính nhân cách và tấm gương của mình. Những giá trị như hoài bão, ước mơ, lý tưởng, tình yêu quê hương, hay đơn giản là lòng trắc ẩn và sự gắn kết cộng đồng, đó là những điều chỉ có thể được truyền thụ từ con người sang con người.
Giáo viên còn đảm nhiệm vai trò cố vấn, người hỗ trợ tâm lý cho học sinh; mang đến sự đồng cảm, lắng nghe, quan tâm, định hướng học sinh về giá trị sống, rèn tư duy phản biện và năng lực tự chủ… Tất cả cho thấy vai trò cốt lõi của người thầy là không thể thay thế bởi AI hay bất kỳ công nghệ nào”, PGS.TS Trần Thành Nam cho hay.
Yêu cầu đổi mới đào tạo
Vai trò giáo viên thay đổi tất yếu đòi hỏi thay đổi trong đào tạo sư phạm. ThS Cao Hồng Huệ - giảng viên chính Viện Công nghệ thông tin, Phó Giám đốc Trung tâm Truyền thông và Sản xuất học liệu, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 nhấn mạnh việc chuyển từ “truyền thụ tri thức nghề nghiệp” sang phát triển năng lực số và năng lực đổi mới sáng tạo cho sinh viên.
Thông tư số 02/2025/TT-BGDĐT ban hành Khung năng lực số cho người học xác định 6 miền năng lực: Khai thác dữ liệu và thông tin; giao tiếp và hợp tác trong môi trường số; sáng tạo nội dung số; an toàn số; giải quyết vấn đề; ứng dụng trí tuệ nhân tạo. Đây là những năng lực nền tảng sinh viên sư phạm cần được hình thành, phát triển ngay trong quá trình học tập.
Để hiện thực hóa Thông tư số 02/2025/TT-BGDĐT, Bộ GD&ĐT ban hành hai văn bản hướng dẫn trọng điểm: Công văn số 3456/BGDĐT-GDPT (với giáo dục phổ thông), Công văn số 2957/BGDĐT-GDĐH (với giáo dục đại học). Hai công văn thể hiện tư duy xuyên suốt: Phát triển năng lực số phải bắt đầu từ giáo dục phổ thông và được củng cố, nâng cao trong giáo dục đại học, đặc biệt ở các trường sư phạm, nơi đào tạo những người thầy tương lai.
Còn theo PGS.TS Bùi Đình Hợi, đào tạo sư phạm cần chuyển mạnh từ mô hình “truyền thụ kiến thức” sang “phát triển năng lực và thích ứng công nghệ”. Điều đó nghĩa là, trường sư phạm phải tăng cường thực hành sư phạm gắn với công nghệ số, từ thiết kế bài giảng điện tử đến quản lý lớp học trực tuyến; kết nối chặt chẽ với trường phổ thông, để sinh viên trải nghiệm thực tế, hiểu rõ cách ứng dụng công nghệ trong dạy học. Quan trọng hơn, cần bồi dưỡng tư duy học tập suốt đời cho giáo sinh, bởi người thầy thế kỷ XXI phải luôn sẵn sàng học lại, cập nhật, đổi mới chính mình.
Chia sẻ những kỹ năng, phẩm chất giáo viên cần trang bị để làm chủ công nghệ trong thực hành nghề nghiệp, PGS.TS Bùi Đình Hợi nhấn mạnh ba nhóm năng lực quan trọng. Thứ nhất là năng lực công nghệ số, biết sử dụng, ứng dụng AI hiệu quả, có đạo đức và sáng tạo trong dạy học. Thứ hai là năng lực thích ứng và học tập suốt đời. Cuối cùng, cũng quan trọng nhất, là năng lực nhân văn, khả năng thấu hiểu, đồng hành, truyền cảm hứng cho học sinh.
Lưu ý, người sử dụng, trong đó có sinh viên cần khai thác sự hỗ trợ của AI hợp lý, tránh lạm dụng. Một số chuyên gia cảnh báo, AI có thể làm cho con người bị vướng vào “bẫy năng lực trung bình”, bởi phụ thuộc quá nhiều vào AI có thể làm thui chột tư duy, sức sáng tạo của não bộ.
Nêu quan điểm về vấn đề này, PGS.TS Trần Thành Nam đưa ra một số vấn đề cơ sở đào tạo giáo viên phải tiến hành đổi mới căn bản, liên tục.
Thứ nhất, xây dựng khung năng lực giáo viên mới và cập nhật chương trình đào tạo. Cần xác định rõ năng lực giáo viên thời đại AI phải có, từ đó thiết kế lại chương trình đào tạo sư phạm phù hợp. UNESCO đề xuất Khung năng lực AI cho giáo viên với 15 năng lực cốt lõi trên 5 lĩnh vực (tư duy lấy con người làm trung tâm, đạo đức AI, kiến thức nền tảng và ứng dụng AI, sư phạm tích hợp AI, sử dụng AI để phát triển chuyên môn). Đây là tham khảo quan trọng để các quốc gia phát triển chuẩn năng lực, chương trình bồi dưỡng giáo viên trong kỷ nguyên số.
Việt Nam cũng đã có các chương trình tăng cường năng lực số và AI cho đội ngũ giáo viên, xây dựng lộ trình trang bị kỹ năng tích hợp AI vào giảng dạy, quản lý giáo dục. Các trường sư phạm phải nhanh chóng cụ thể hóa khung năng lực AI, đưa những yêu cầu năng lực mới này vào chuẩn đầu ra và nội dung đào tạo, tránh tình trạng sinh viên tốt nghiệp thiếu kỹ năng cần thiết của giáo viên thời đại mới.
Thứ hai, tích hợp công nghệ và AI vào toàn bộ quá trình đào tạo. Nhà trường cần đầu tư hạ tầng công nghệ, trang thiết bị hiện đại để sinh viên, giảng viên được tiếp cận trực tiếp với các công cụ số; tổ chức tập huấn, bồi dưỡng năng lực sử dụng AI cho cả giảng viên, sinh viên. Việc ứng dụng AI nên được lồng ghép trong các học phần và hoạt động sư phạm - từ thiết kế bài giảng, quản lý lớp học đến đánh giá người học - để sinh viên hình thành kỹ năng vận dụng công nghệ ngay trong quá trình học.
Thứ ba, đổi mới phương pháp dạy học và tư duy giáo dục trong trường sư phạm; không thể đào tạo giáo viên của thế kỷ 21 bằng phương pháp sư phạm lỗi thời. Chương trình cần chuyển mạnh sang triết lý giáo dục lấy người học làm trung tâm, thúc đẩy học tập tự chủ và sáng tạo; khuyến khích mô hình học tập cá nhân hóa, trải nghiệm đa dạng, giúp sinh viên sư phạm hiểu cách thiết kế hoạt động dạy học phù hợp với năng lực, nhu cầu người học.
Chủ trương của ngành Giáo dục cũng nhấn mạnh phải phát triển giáo dục thông minh, giáo dục cá nhân hóa, giáo dục sáng tạo và thích ứng với AI. Những điều này cần được phản ánh trong chính cách thức mà các trường sư phạm đào tạo giáo viên.
Thứ tư, tích hợp giáo dục đạo đức công nghệ và đảm bảo hành lang pháp lý. Bên cạnh kỹ năng, sinh viên sư phạm phải được trang bị hiểu biết về đạo đức nghề nghiệp trong bối cảnh công nghệ số. Về chính sách, Nhà nước cần sớm ban hành khung pháp lý ứng dụng AI trong giáo dục.
Thứ năm, phát triển hệ sinh thái đào tạo mở và hợp tác nhiều bên. Đổi mới đào tạo sư phạm không thể thành công nếu các trường tự vận hành một mình. Cần xây dựng một hệ sinh thái mở, nơi các trường liên kết chặt chẽ với hệ thống trường phổ thông, doanh nghiệp công nghệ giáo dục, các tổ chức quốc tế và cộng đồng để trao đổi kinh nghiệm, cập nhật xu hướng, hỗ trợ lẫn nhau.
Mỗi cơ sở đào tạo sư phạm cũng nên chủ động thiết lập quan hệ hợp tác quốc tế, tham gia các mạng lưới nghiên cứu và sử dụng tài nguyên giáo dục mở để liên tục làm mới mình.
Đề xuất lộ trình đổi mới cho trường sư phạm
Cũng đưa giải pháp, dựa trên kinh nghiệm quốc tế và các tiêu chuẩn của UNESCO, ông Ngô Huy Tâm - chuyên gia giáo dục, ThS Thiết kế chương trình giảng dạy Đại học Houston (Mỹ) đề xuất lộ trình đổi mới toàn diện, có hệ thống cho trường sư phạm với ba giai đoạn chính.
Giai đoạn 1 (2025 - 2027): Nâng cao nhận thức và thử nghiệm thí điểm. Giai đoạn này tập trung tạo ra nền tảng nhận thức chung. Trường sư phạm cần tổ chức các đợt tập huấn, hội thảo sâu rộng cho giảng viên, sinh viên về các khái niệm cơ bản, cơ hội, thách thức của AI trong giáo dục. Đồng thời, triển khai các dự án thí điểm ở một vài khoa, bộ môn để thử nghiệm công cụ, phương pháp sư phạm mới.
Giai đoạn 2 (2028 - 2030): Tích hợp toàn diện và thích ứng chương trình. Đây là giai đoạn đòi hỏi thay đổi mang tính hệ thống. Các trường sư phạm cần rà soát, cập nhật toàn bộ chương trình đào tạo để tích hợp nội dung về năng lực số, sư phạm AI phù hợp. Đây là bước đi bắt buộc để đào tạo ra thế hệ giáo viên có thể đáp ứng yêu cầu của Cách mạng Công nghiệp 4.0.
Giai đoạn 3 (sau 2030): Sáng tạo và dẫn dắt. Ở giai đoạn này, các trường sư phạm hàng đầu của Việt Nam không chỉ bắt kịp mà còn phải vươn lên dẫn dắt sự đổi mới. Cần xây dựng các chương trình đào tạo chuyên sâu, cấp chứng chỉ hoặc thậm chí bằng Thạc sĩ về AI trong giáo dục (AIED), tương tự mô hình của NIE Singapore. Đồng thời, thúc đẩy mạnh mẽ các dự án nghiên cứu khoa học giáo dục, phát triển các công cụ, nền tảng AI “Made in Vietnam”, được thiết kế riêng để phù hợp với chương trình giáo dục phổ thông, bối cảnh văn hóa Việt Nam.
“Đổi mới đào tạo sư phạm không thể chỉ dừng lại ở các buổi tập huấn, hay các khóa học riêng lẻ. Thách thức thực sự, cũng là yêu cầu cấp bách nhất nằm ở cải tổ toàn diện chương trình đào tạo. Chỉ bổ sung một môn học tự chọn về “Ứng dụng AI cho giáo viên” là không đủ.
Đổi mới thực chất, như kinh nghiệm của Phần Lan gợi ý, đòi hỏi phải tích hợp năng lực sư phạm AI vào tất cả các môn học chuyên ngành. Sinh viên sư phạm Toán tương lai cần phải học cách sử dụng các nền tảng học tập thích ứng để cá nhân hóa việc luyện tập cho học sinh. Sinh viên sư phạm Lịch sử tương lai cần học cách dùng AI để tạo ra các tour tham quan bảo tàng ảo hay tái hiện các sự kiện lịch sử.
Điều này yêu cầu mọi giảng viên sư phạm đều phải trở thành chuyên gia về phương pháp sư phạm AI trong lĩnh vực của mình. Đây là một thách thức, cũng là nhiệm vụ chiến lược, dài hạn cho hệ thống giáo dục đại học sư phạm của Việt Nam”, ông Ngô Huy Tâm cho hay.
“Trường sư phạm cần đi đầu trong triển khai Khung năng lực số. Sinh viên không chỉ học về công nghệ mà phải được sống trong môi trường học tập số, được thực hành giảng dạy trên các nền tảng LMS, E-learning, sử dụng AI trong phản hồi, đánh giá học sinh và thiết kế học liệu số. Chỉ khi đó, khi trở thành giáo viên, các em mới thực sự có năng lực dẫn dắt học sinh phát triển năng lực số theo yêu cầu Bộ GD&ĐT đưa ra”, ThS Cao Hồng Huệ cho hay.
Nguồn: https://giaoducthoidai.vn/vai-tro-nguoi-thay-trong-kien-tao-he-cong-dan-so-doi-moi-dao-tao-su-pham-thoi-dai-so-post755651.html






Bình luận (0)