Từ cơ quan quản lý, tài trợ quốc tế đến thực tiễn địa phương, các đại biểu tại Hội thảo “Mã số rừng trồng gắn với thực hiện quản lý rừng bền vững và chứng chỉ rừng” sáng 6/11 đều chung nhận định, Việt Nam cần nhanh chóng hoàn thiện hệ thống mã số rừng để kiểm soát nguồn gốc gỗ hợp pháp và thích ứng với các tiêu chuẩn mới như EUDR của Liên minh châu Âu.
Phó Cục trưởng Nguyễn Văn Diện phát biểu khai mạc hội thảo. Ảnh: Bảo Thắng.
Minh bạch trong quản lý rừng
Ông Nguyễn Văn Diện, Phó Cục trưởng Cục Lâm nghiệp và Kiểm lâm nhấn mạnh, mã số rừng trồng là bước đi quan trọng trong tiến trình hiện đại hóa ngành lâm nghiệp. “Mã số không chỉ giúp xác định cụ thể từng khu rừng, mà còn kết nối dữ liệu giữa chủ rừng, cơ quan quản lý và doanh nghiệp chế biến - xuất khẩu”, ông nói.
Hệ thống này giúp quản lý rừng minh bạch, thuận lợi trong việc cấp chứng chỉ rừng và đáp ứng yêu cầu truy xuất nguồn gốc gỗ hợp pháp của các thị trường khó tính. Khi EUDR (Quy định chống mất rừng của EU) có hiệu lực, doanh nghiệp xuất khẩu gỗ Việt Nam buộc phải chứng minh nguyên liệu không liên quan đến phá rừng, thoái hóa đất hay vi phạm quy định bảo tồn.
“Chúng ta đang đứng trước sức ép thay đổi. Nhưng nếu chủ động, Việt Nam hoàn toàn có thể biến yêu cầu tuân thủ thành lợi thế cạnh tranh”, ông Diện nói thêm và bổ sung, rằng Cục đã phối hợp Viện Khoa học Lâm nghiệp thí điểm cấp mã số vùng trồng tại 5 tỉnh miền núi phía Bắc.
Kết quả ban đầu cho thấy mô hình này giúp kiểm soát tốt hơn nguồn gốc nguyên liệu, tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp xin cấp chứng chỉ rừng theo tiêu chuẩn quốc tế.
Trung tâm Kinh tế Lâm nghiệp (Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam) trình bày báo cáo tổng kết sau khi thí điểm cấp mã số rừng trồng. Ảnh: Bảo Thắng.
Dù vậy, việc triển khai vẫn gặp khó khăn do thiếu cơ sở dữ liệu đồng bộ giữa các địa phương, nguồn lực kỹ thuật hạn chế, và đặc biệt là sự thiếu nhận thức của một số doanh nghiệp nhỏ về tầm quan trọng của mã số vùng trồng đối với xuất khẩu.
“Cục sẽ tiếp tục hướng dẫn, hoàn thiện quy trình kỹ thuật, đồng thời tham mưu Bộ Nông nghiệp và Môi trường ban hành các quy định cụ thể, nhằm thống nhất cơ chế quản lý mã số rừng trồng trên phạm vi toàn quốc”, ông nói.
Hợp tác quốc tế - đòn bẩy cho quản lý rừng bền vững
Đại diện Cơ quan Phát triển Pháp (AFD), bà Lê Thu Hương cho rằng việc thiết lập mã số rừng trồng của Việt Nam nằm trong xu thế toàn cầu về quản lý tài nguyên thiên nhiên có trách nhiệm. Bà dẫn ví dụ Sáng kiến "Thúc đẩy Cam kết Đa dạng sinh học" (BIODEV2030) do AFD tài trợ, đang được triển khai tại 16 quốc gia nhằm tích hợp yếu tố đa dạng sinh học vào quá trình ra quyết định phát triển kinh tế.
“BIODEV2030 không chỉ là một dự án, mà là cách tiếp cận mới để các quốc gia phát triển kinh tế mà không đánh đổi môi trường”, bà Hương nói. Ở Việt Nam, chương trình đã hỗ trợ đối thoại giữa các cơ quan nhà nước, doanh nghiệp và tổ chức xã hội, từ đó xác định các lĩnh vực kinh tế có tác động lớn đến rừng, bao gồm nông nghiệp, hạ tầng và công nghiệp chế biến gỗ.
Theo bà, BIODEV2030 sẽ tập trung thúc đẩy các cam kết tự nguyện giữa các bên liên quan, đồng thời hỗ trợ kỹ thuật cho ngành lâm nghiệp trong việc xây dựng và vận hành hệ thống mã số rừng trồng thống nhất. “AFD mong muốn hợp tác lâu dài với Việt Nam để những nỗ lực này không dừng lại ở quy định, mà trở thành công cụ thực tiễn cho phát triển xanh”, bà bày tỏ.
Chung quan điểm, bà Nguyễn Bích Hằng, đại diện WWF Việt Nam, cho rằng mã số rừng trồng không chỉ giúp Việt Nam chủ động ứng phó với EUDR, mà còn là nền tảng để khẳng định vị thế quốc gia cung ứng gỗ hợp pháp trên thị trường toàn cầu.
Các đại biểu thảo luận về nhiều chủ đề liên quan tới mã số rừng trồng. Ảnh: Bảo Thắng.
Đại diện WWF Việt Nam cũng nhấn mạnh vai trò của BIODEV2030 trong việc hỗ trợ Cục Lâm nghiệp và Kiểm lâm trong chuẩn hóa dữ liệu, hướng dẫn kỹ thuật và truyền thông tới doanh nghiệp, giúp nâng cao năng lực cho các địa phương tham gia cấp mã số rừng trồng. Khi hệ thống đi vào vận hành đồng bộ, Việt Nam sẽ dễ dàng chứng minh tính hợp pháp của nguồn gỗ, từ đó mở rộng cơ hội tiếp cận các thị trường cao cấp.
“Việc kết nối giữa mã số rừng trồng, chứng chỉ rừng và truy xuất nguồn gốc hợp pháp sẽ tạo nên trục quản lý xuyên suốt, từ trồng, thu hoạch đến chế biến và xuất khẩu. Đây là nền tảng để Việt Nam hướng tới một ngành lâm nghiệp xanh và có trách nhiệm”, bà Hằng khẳng định.
Từ quản lý rừng tới thương hiệu quốc gia về gỗ hợp pháp
Tại hội thảo, các đại biểu tập trung thảo luận 4 nhóm nội dung: Đánh giá thực trạng triển khai mã số rừng trồng và các khó khăn về kỹ thuật, pháp lý. Xác định mối liên kết giữa mã số rừng trồng, quản lý rừng bền vững, chứng chỉ rừng và truy xuất nguồn gốc gỗ hợp pháp.
Đồng thời, đề xuất cơ chế phối hợp giữa cơ quan nhà nước, doanh nghiệp và các tổ chức chứng chỉ rừng. Thúc đẩy ứng dụng công nghệ số trong truy xuất nguồn gốc, kết nối dữ liệu vùng trồng với hệ thống giám sát, quản lý rừng quốc gia.
Qua đó, thống nhất quan điểm, rằng mỗi vùng rừng được gắn mã số đồng nghĩa với việc dữ liệu sản xuất được số hóa, có thể kiểm chứng và chia sẻ giữa các bên - điều mà các thị trường phát triển coi là tiêu chuẩn bắt buộc.
Ông Nguyễn Văn Diện cho biết, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đang xem xét đưa mã số rừng vào hệ thống giám sát quốc gia, tích hợp cùng chương trình cấp chứng chỉ rừng và truy xuất nguồn gốc gỗ. “Mục tiêu là minh bạch hóa toàn bộ chuỗi giá trị, từ khâu trồng rừng đến chế biến và xuất khẩu”, ông nhấn mạnh.
Giá trị xuất khẩu lâm sản Việt Nam năm 2024 khoảng 17,3 tỷ USD, trong đó lao động trực tiếp trong ngành hơn 500.000 người. Mã số rừng trồng được kỳ vọng sẽ phát triển hơn nữa ngành lâm nghiệp, đặc biệt là truy xuất nguồn gốc và phát triển theo chuỗi.
Nguồn: https://nongnghiepmoitruong.vn/viet-nam-tang-toc-hoan-thien-he-thong-ma-so-rung-trong-d782645.html






Bình luận (0)