Từ “sống còn” vì sản xuất
Cuối tháng 5/2025, hồ Lòng Sông còn 13,81 triệu m3 nước, hồ Đá Bạc 1,23 triệu m3 nước và hồ Phan Dũng 2,94 triệu m3 nước. Toàn huyện Tuy Phong đã sản xuất xong vụ hè thu từ gần 1 tháng trước, sớm hơn kế hoạch của sở chức năng 10 ngày. Không có cảnh bỏ vụ, vì thiếu nước như những năm trước xa. Hay trước đó nữa, vụ hè thu ở Tuy Phong luôn là vụ trông trời, dân mong sản xuất đến độ chấp nhận gieo vùi chờ mưa, như đánh canh bạc với trời. Nếu mưa không về kịp, những hạt lúa gieo vùi ấy sẽ vùi luôn trong đất. Đến nước sinh hoạt cũng khó khăn, dân một số nơi trong huyện đã đi mua nước từng can… Đó là thời điểm Tuy Phong đã có hồ Đá Bạc nhưng hồ có dung tích 8,09 triệu m3 nước theo thiết kế ở xã Vĩnh Hảo với nhiệm vụ tưới gần 400 ha và thực tế diễn ra hồ rất ít khi đủ nước để đảm đương diện tích ấy. Sau này, hồ Lòng Sông với dung tích thiết kế gần 30 triệu m3 được xây dựng vào năm 2006, có nhiệm vụ cấp nước tưới cho nông nghiệp với diện tích 4.260 ha, cấp nước sinh hoạt cho 53.000 người thì diện tích sản xuất chủ động nước trên địa bàn huyện được mở rộng.



Lúc đó, Tuy Phong đỡ khát nhưng thi thoảng vào năm hạn gắt, không có mưa, toàn huyện vẫn rơi vào cảnh bỏ vụ, vì hồ Lòng Sông, hồ Đá Bạc không đủ nước. Mãi đến năm 2013, khi hồ Phan Dũng xuất hiện, mang nguồn nước bổ sung hỗ trợ về hồ Lòng Sông, mạng thủy lợi liên 3 hồ trên địa bàn huyện hình thành nên đã cơ bản bảo đảm yếu tố cần cho sản xuất. 7 đập dâng rải ở các xã Phan Dũng, Phong Phú, Phú Lạc, Phước Thể, thị trấn Liên Hương và trạm bơm BC2 ở xã Phong Phú cũng phát huy tác dụng nhiều hơn. Hệ thống thủy lợi nội đồng được dần nối dài. Số liệu từ UBND huyện Tuy Phong cho thấy, toàn huyện có tổng số 193 tuyến kênh tưới thủy lợi nội đồng cấp 1, cấp 2, cấp 3 với tổng chiều dài 165,29 km. Trong đó, kênh cấp 1 có 35 tuyến kênh với tổng chiều dài: 54,60 km; kênh cấp 2 có 153 tuyến kênh với tổng chiều dài 108,70 km và kênh cấp 3 có 5 tuyến kênh với tổng chiều dài 1,97 km.






Từ đó về sau này, sản xuất ở Tuy Phong đã chuyển hướng đa dạng cây trồng, những loại có giá trị kinh tế cao nhưng dùng ít nước. Theo đó, Tuy Phong không chỉ có lúa, cây màu mà còn có nho, táo, thanh long… hướng tới nền nông nghiệp hiện đại, giá trị gia tăng cao. Mấu chốt của vấn đề là nhờ đầu tư thủy lợi quy mô, kết nối chuyển nước.


Đến tính toán nước cho ngành kinh tế khác
Như ‘Qua cơn bĩ cực đến ngày thái lai”, bên cạnh nông nghiệp, Tuy Phong có thêm ngành kinh tế mới, là công nghiệp điện xuất hiện rất nhanh sau một thời gian. Không chỉ biến trở ngại của vùng “nắng lắm gió nhiều” thành năng lượng tái tạo qua thu hút hàng loạt dự án điện gió, điện mặt trời, Tuy Phong còn được chọn xây dựng trung tâm nhiệt điện, thành nơi góp phần cung cấp điện ổn định cho khu vực miền Nam. Tuy nhiên, điều đáng nói là nước cho sản xuất công nghiệp, nhất là ở vùng hạn Tuy Phong, tưởng chừng đã chật vật lắm mới có nguồn nước cho sản xuất. Thế nhưng, thực tế diễn ra cho thấy đã sắp xếp được thông qua việc xây dựng lần lượt các tuyến kênh nội huyện, liên huyện, mang tính chất hỗ trợ, chuyển nước từ vùng có sang vùng thiếu.
Đó là kênh tiếp nước Lòng Sông - Đá Bạc dài 16,237 km được xây dựng hoàn thành năm 2016, có nhiệm vụ cấp nước cho Trung tâm nhiệt điện Vĩnh Tân với công suất 10,535 triệu m3/năm. Song song đó, ổn định nước tưới cho 394 ha đất canh tác thuộc hệ thống tưới hồ Đá Bạc và mở rộng khu tưới khoảng 650 ha đất canh tác, góp phần cải tạo đất bị nhiễm mặn, hạn chế quá trình sa mạc hóa đang diễn ra trong khu vực. Việc chia nguồn nước này cho công nghiệp trong tình hình nước chưa dồi dào của Tuy Phong không thể mang tính lâu dài. Đó là lý do kênh chuyển nước Tà Mú - Suối Măng - Cây Cà dài 43 km được xây dựng, dù mới nghe thôi đã thấy nhiều trở ngại. Vì kênh lấy nước từ nguồn của thủy điện Đại Ninh và lưu vực Sông Lũy thuộc địa bàn Bắc Bình chuyển ra địa bàn Tuy Phong với điểm cuối của kênh nối vào điểm đầu của tuyến kênh Lòng Sông – Đá Bạc.
Tuyến kênh xây dựng hoàn thành cuối năm ngoái, hiện đang thử tải nước để bảo đảm nguồn nước chuyển đi này có thể phát triển thêm 1.500 ha đất sản xuất nông nghiệp. Trong đó phát triển sản xuất thêm 500 ha cho huyện Bắc Bình và bổ sung nguồn nước để đảm bảo sản xuất 0 3 vụ/năm cho 1.000ha khu tưới Cây Cà của hồ Lòng Sông thuộc huyện Tuy Phong.
Đến lúc này, khi việc nối mạng thủy lợi vùng khát Tuy Phong đã và đang mang lại hiệu quả, người ta nhận ra diện tích sản xuất nông nghiệp của Tuy Phong đã tăng gấp 14 lần so năm 1995, từ 1 vụ lên 3 vụ nên năm ngoái đã sản xuất gần 7.000 ha. Đồng thời, cũng nhờ công cuộc trị hạn kéo dài bền bỉ này, Tuy Phong có ngành công nghiệp điện với quy mô tạo tiền đề cho việc xây dựng trung tâm năng lượng quốc gia trong tương lai.
Nguồn: https://baobinhthuan.com.vn/50-nam-tri-han-cua-binh-thuan-cho-nganh-kinh-te-khac-phat-trien-130619.html
Bình luận (0)