Quảng trường Hồ Chí Minh tại TP. Đồng Hới, nơi ghi dấu ấn 68 năm trước Bác Hồ vào thăm Quảng Bình, Vĩnh Linh - Ảnh: N.T.L
Sắt son nơi khúc ruột miền Trung
Ngược dòng lịch sử, Quảng Bình, Quảng Trị vốn duyên nợ cùng nhau trong đại gia đình ngũ Quảng, gồm: Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Quảng Đức (TP. Huế hiện tại). Đặc biệt, trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, Quảng Bình, Quảng Trị nghĩa nặng càng nặng, tình sâu càng lắng sâu...
Lịch sử đất phương Nam thời mở cõi ghi đậm dấu ấn của danh nhân người Quảng Bình là Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh (1650-1700) dưới thời chúa Minh, Nguyễn Phúc Chu (1691-1725). Vâng lệnh chúa Minh, Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh kinh lược Chân Lạp (1698), định hình xứ Đồng Nai, Sài Gòn-Gia Định, chiêu mộ dân xứ ngũ Quảng vào khai khẩn đất đai, lập nên nhiều làng xã mới.
Sở dĩ chúng tôi ngược dòng lịch sử đến 327 năm (1698-2025) lúc Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh “Từ độ mang gươm đi mở cõi. Trời Nam thương nhớ đất Thăng Long” vì xứ ngũ Quảng dưới thời nhà Nguyễn, theo Đại Nam nhất thống chí trải dài từ nam đèo Ngang đến tận đèo Bình Đê (giáp ranh giữa Quảng Ngãi và Bình Định); trong đó, Quảng Bình, Quảng Trị “biển rừng liền nhau” nơi dải đất hẹp nhất khúc ruột miền Trung.
Ngày 16/6/1957 trở thành dấu mốc lịch sử trọng đại đối với quân và dân Quảng Bình, Vĩnh Linh khi đón Bác Hồ vào thăm. Bác căn dặn: “Quảng Bình cùng với Vĩnh Linh ở tuyến đầu miền Bắc, tiếp giáp với miền Nam, mọi việc làm tốt hay xấu các cô, các chú ở đây đều có ảnh hưởng nhất định đến cách mạng miền Nam, đều ảnh hưởng đến việc bảo vệ miền Bắc. Nếu kẻ địch có hoạt động liều lĩnh gì thì Quảng Bình và Vĩnh Linh phải đương đầu với chúng trước hết”.
Trong kháng chiến chống Mỹ, Quảng Bình, Vĩnh Linh là “ngôi nhà lớn” ở hậu phương miền Bắc, “tiền tuyến lớn” của miền Nam. Nhân dân hai tỉnh đoàn kết một lòng “Hạt thóc chia đều, dẫu no, dẫu đói/Ta vẫn vẹn tình, đắng ngọt cùng vui”, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.
Tại Vĩnh Linh, bộ đội miền Bắc, trong đó có rất nhiều con em Quảng Bình từng sống, chiến đấu ở đôi bờ Hiền Lương, được Nhân dân Vĩnh Linh che chở, đùm bọc, yêu thương. Những người lính “Ăn cơm Bắc, đánh giặc Nam” ngày ấy nhiều người vĩnh viễn nằm lại dọc hai bờ giới tuyến. Liệt sĩ Nguyễn Bá Mễ (Quang Phú, TP. Đồng Hới) là một trong số đó.
Liệt sĩ Nguyễn Bá Mễ nhập ngũ tháng 5/1965 thuộc Đại đội 9, Tiểu đoàn 6, Trung đoàn 270, Quân khu 4, đóng quân ở xã Vĩnh Chấp. Khi vượt sông Hiền Lương tham gia trận đánh tại thôn Hà Trung, xã Gio Châu (Gio Linh) ngày 17/6/1969, ông và 53 đồng đội đã anh dũng hy sinh, thân xác họ hòa cùng mảnh đất Quảng Trị bao dung.
Khi biết tin Quảng Bình, Quảng Trị về chung một nhà, anh Nguyễn Văn Ước, con trai liệt sĩ Nguyễn Bá Mễ xúc động: “Thật ra ba tôi cùng đồng đội ngã xuống ở đâu cũng là trên đất nước Việt Nam này. Nhưng bây giờ, gia đình chúng tôi mỗi lần vào thắp hương cho ba không còn phải nói từ Quảng Bình vô nữa mà ba đã an nghỉ ngay chính trên quê hương mình. Quê hương rộng ra, lớn hơn, bao dung, sâu nặng”.
Nghĩa tình nơi vùng đất giáp ranh
Trở lại những năm tháng chiến tranh chống Mỹ, Quảng Bình, Vĩnh Linh chịu sự hủy diệt nặng nề của bom đạn kẻ thù. Với tầm nhìn xa, Bác Hồ và Trung ương Đảng quyết định đưa hơn 30 nghìn trẻ em độ tuổi từ 5 đến 15 ở Vĩnh Linh, Quảng Bình ra Bắc để “giữ gìn lực lượng và nòi giống”, đào tạo trở thành người có ích, sau này trở về xây dựng lại quê hương.
Hai cuộc di dân lịch sử này mang mật danh K8, K10. Nhưng có thêm một cuộc di dân lần thứ ba với tên gọi Kế hoạch 15 (K15), được tỉnh Quảng Trị gấp rút triển khai ngay sau ngày Quảng Trị giải phóng lần thứ nhất (1/5/1972), sơ tán khoảng 8 vạn người các vùng chiến sự Hải Lăng, Triệu Phong ra Quảng Bình, Vĩnh Linh.
Vùng đất giáp ranh Quảng Bình, Quảng Trị - Ảnh: N.T.L
Trong hoàn cảnh thời chiến, máy bay Mỹ đánh phá ác liệt ngày đêm, Nhân dân Vĩnh Linh, Lệ Thủy thực hiện khẩu hiệu “4 chia” (chia nhà, chia cửa, chia lửa, chia máu) với đồng bào Triệu Phong, cứ một hộ gia đình nhận kết nghĩa, chăm nuôi một gia đình từ Quảng Trị sơ tán, thậm chí có nhà nhận hai đến ba gia đình đồng bào Quảng Trị. Tinh thần “nhường cơm, sẻ áo” được phát huy cao độ. Người dân hai tỉnh bảo bọc nhau, có cơm ăn cơm, có sắn khoai dùng sắn khoai, quyết tâm không để một ai bị đói, bị ốm đau, bệnh tật.
Trở lại thôn Sen Bình (Sen Thủy), chúng tôi thăm lại vợ chồng ông Nguyễn Văn Yển, Lê Thị Thiếp. Bà Thiếp người Quảng Trị sơ tán K15. Gia đình bà Thiếp ở xã Triệu Độ (Triệu Phong), tháng 5/1972, cả nhà gồm 6 người đội mưa bom, bão đạn ra Bắc. Đến vùng giáp ranh thì được bà con thôn Sen Bình đón nhận. Những năm tháng ở Sen Bình, bà Lê Thị Thiếp gặp ông Nguyễn Văn Yển, du kích thôn Chấp Bắc (Vĩnh Chấp) rồi thành vợ thành chồng.
Trong câu chuyện vui một thời “hạt gạo bẻ hai, củ khoai chia bốn” theo K15, ông bà Nguyễn Văn Yển, Lê Thị Thiếp chân thành: “Bây giờ thì cấm phân biệt quê ông, quê tui nữa rồi nhé. Quảng Bình, Quảng Trị về chung một nhà, không vui sao được. Câu chuyện nghe hơi hướng chút trạng Vĩnh Hoàng: “Biết có ngày Quảng Bình, Quảng Trị chung biển, chung trời, nên tiên phong ra Quảng Bình trước đó chơ. Đi trước đến 53 năm chứ ít mô!”
Bản anh hùng ca trên Công trình thủy lợi Nam Thạch Hãn
Đại công trình thủy lợi Nam Thạch Hãn ở phía Tây thị xã Quảng Trị có tuổi đời gần 50 năm, xuyên qua hai thế kỷ. Trong chuyến thăm đại Công trình thủy lợi Nam Thạch Hãn đầu tháng 5/2025, chúng tôi gặp lại những người một thời đi xây “hồ trên núi” như kỹ sư Phạm Phước, nguyên Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Bình, nguyên Phó Trưởng Ban chỉ huy kiêm Trưởng phòng Kỹ thuật công trường từ tháng 3/1977 đến tháng 1/1983; ông Phan Đức Đoài, nguyên Bí thư Huyện ủy Bố Trạch, nguyên Sư đoàn trưởng Sư đoàn thủy lợi Bố Trạch; ông Bùi Công Thọe, nguyên Phó Chủ tịch UBND TX. Đồng Hới, cán bộ Sư đoàn thủy lợi TX. Đồng Hới...
Ông Phạm Phước nhớ lại. Sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng và tỉnh Bình Trị Thiên thành lập. Đảng, Nhà nước rất quan tâm đến vấn đề phát triển kinh tế, khắc phục hậu quả chiến tranh tại miền Trung, ưu tiên phát triển nông nghiệp nhằm bảo đảm vấn đề an ninh lương thực cho Nhân dân. Đây là công trình thủy lợi trọng điểm, lớn nhất, đầu tiên của Bộ Thủy lợi và tỉnh Bình Trị Thiên ở miền Nam. Công trình bắt đầu khởi công ngày 8/3/1977.
“Nhưng vì sao lực lượng tham gia lại có các phiên hiệu Sư đoàn thủy lợi?”, tôi thắc mắc. Ông Phan Đức Đoài giải thích: “Công trường Nam Thạch Hãn ngày ấy quy mô lớn, hoàn toàn làm bằng thủ công, nghĩa là dùng sức người với hai bàn tay là chính cùng những phương tiện thô sơ. Vì thế đòi hỏi số lượng nhân lực lớn, quân số thường trực trên công trường lên đến hàng nghìn người, thời điểm đông nhất khoảng 7,3 vạn người, tổ chức theo hình thức quân sự hóa. Lực lượng lao động là thanh niên, nam nữ huy động toàn tỉnh Bình Trị Thiên.
Mỗi huyện tổ chức thành một sư đoàn mang chính tên địa phương mình: Tuyên Hóa, Quảng Trạch, Bố Trạch, Đồng Hới, Lệ Ninh, Bến Hải, Đông Hà, Triệu Hải, Hương Điền, Phú Lộc, Nam Đông, TP. Huế... Đơn cử như Sư đoàn thủy lợi Bố Trạch do tôi phụ trách gồm 23 đại đội, khoảng 1.500 người. Phương tiện lao động chỉ là các dụng cụ thô sơ như cuốc, xẻng, gồng gánh, trạc dắc để làm đất; ve, búa để đục đá.
Ngay cả việc đầm nện cũng thực hiện bằng đầm gỗ hoặc gang đúc, đầm nhỏ thì mỗi người một cái, đầm lớn thì 2 đến 4 người cùng sử dụng. Rải đất từng lớp mỏng rồi đầm... cứ thế, hết lớp này đến lớp khác. Đầm đất theo tiếng còi của người chỉ huy. Tiếng còi cất lên, tiếng đầm nện xuống rền vang cả một vùng’’.
Trong thời gian 3 năm (1977-1980) Công trình thủy lợi Nam Thạch Hãn cơ bản hoàn thành, đưa nước về tưới cho 9.000 ha lúa vụ đông-xuân và gần 5.500 ha lúa vụ hè- thu hai huyện Triệu Phong, Hải Lăng và một phần diện tích huyện Phong Điền. Công trình thủy lợi Nam Thạch Hãn là sự hợp lực, hợp sức của người dân 3 tỉnh Bình Trị Thiên , thắt chặt hơn sự đoàn kết thủy chung Quảng Bình, Quảng Trị.
Ngô Thanh Long
Nguồn: https://baoquangtri.vn/am-tinh-hai-que-quang-tri-quang-binh-194467.htm
Bình luận (0)