“Nền móng” phát triển nguồn nhân lực
Triển khai Chiến lược công tác dân tộc giai đoạn 2021-2025, Sở Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT) đã xác định giáo dục là “nền móng” để thúc đẩy phát triển con người và thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng miền. Công tác chỉ đạo được thực hiện thống nhất từ tỉnh đến cơ sở, gắn trách nhiệm từng đơn vị, từng trường học với kết quả thực hiện. Nhiều nghị quyết quan trọng về đầu tư giáo dục, miễn giảm học phí, hỗ trợ bán trú, xóa mù chữ… được tham mưu ban hành, đảm bảo các em học sinh vùng khó có đủ điều kiện tiếp cận giáo dục bình đẳng và chất lượng.
Trong chiến lược phát triển bền vững của tỉnh Quảng Ninh, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực vùng đồng bào DTTS luôn được xác định là nhiệm vụ then chốt, là mắt xích quan trọng để rút ngắn khoảng cách phát triển giữa các vùng miền. Giai đoạn 2021-2025, nhờ sự chỉ đạo quyết liệt của tỉnh, sự vào cuộc đồng bộ của ngành GD&ĐT, nhiều chương trình, đề án quy mô lớn đã được triển khai, mang lại chuyển biến rõ rệt trong tiếp cận giáo dục, chất lượng đào tạo và cơ hội phát triển của học sinh vùng DTTS. Báo cáo sơ kết Chiến lược công tác dân tộc của Sở GD&ĐT cho thấy bức tranh đầy kỳ vọng về nguồn nhân lực tương lai của vùng đồng bào thiểu số.
Nếu như trước đây, nhiều điểm trường thuộc vùng đặc biệt khó khăn còn thiếu thốn, thì nay, nhờ ưu tiên đầu tư mạnh mẽ từ tỉnh và các chương trình mục tiêu quốc gia, diện mạo giáo dục vùng DTTS đã thay đổi rõ rệt.
Trong giai đoạn 2022-2025, gần 390 tỷ đồng được phân bổ để cải tạo, nâng cấp và xây dựng mới 30 trường học tại các xã miền núi, vùng biên, hải đảo. Các trường PTDT nội trú, PTDT bán trú hay trường có học sinh bán trú đều được chú trọng nâng cấp theo hướng chuẩn hóa.
Đến nay, Quảng Ninh có 11.272 phòng học kiên cố (chiếm 95,8%) và 92,07% trường đạt chuẩn quốc gia - một trong những tỷ lệ cao nhất cả nước. Những dãy phòng học mới, lớp học khang trang đã thay đổi đáng kể điều kiện học tập của học sinh vùng DTTS, tạo nền tảng vững chắc để tăng chất lượng dạy và học.
Đặc biệt, ngày 9/11 vừa qua, tỉnh đã khởi công xây dựng đồng loạt 6 trường (1 trường TH&THCS và 5 trường phổ thông nội trú TH&THCS) gồm: Trường Phổ thông nội trú TH&THCS Hoành Mô (xã Hoành Mô); Trường Phổ thông nội trú TH&THCS Bình Liêu (xã Bình Liêu); Trường Phổ thông nội trú TH&THCS Đồng Tâm (xã Lục Hồn); Trường Phổ thông nội trú TH&THCS Quảng Đức (xã Quảng Đức); Trường Phổ thông nội trú TH&THCS Quảng Sơn (xã Đường Hoa); Trường TH&THCS Hải Sơn (xã Hải Sơn). Việc xây dựng hệ thống trường học trên tuyến biên giới là bước đi quan trọng, góp phần cụ thể hóa chủ trương, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước; tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao dân trí, chất lượng nguồn nhân lực, cải thiện đời sống nhân dân vùng biên; đồng thời củng cố quốc phòng - an ninh, xây dựng biên cương vững mạnh.
Quảng Ninh là một trong những địa phương tiên phong mở rộng đối tượng và kéo dài thời gian thực hiện các chính sách hỗ trợ học sinh DTTS, bảo đảm không có học sinh nào bị bỏ lại phía sau.
Một trong những điểm nhấn quan trọng là hệ thống chính sách hỗ trợ học sinh vùng DTTS được triển khai đầy đủ, kịp thời và mở rộng. Ngoài các chính sách của Trung ương như hỗ trợ gạo, hỗ trợ ăn trưa, miễn giảm học phí, Quảng Ninh còn ban hành các nghị quyết đặc thù nhằm duy trì chế độ hỗ trợ cho học sinh vùng khó. Như: Nghị quyết số 204/2019/NQ-HĐND của HĐND tỉnh quy định một số chính sách hỗ trợ trong các cơ sở giáo dục, mầm non, phổ thông và giáo dục thường xuyên trên địa bàn tỉnh; Nghị quyết số 248/2020/NQ-HĐND của HĐND tỉnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy định ban hành kèm theo Nghị quyết số 204/2019/NQ-HĐND của HĐND tỉnh quy định một số chính sách hỗ trợ trong các cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông và giáo dục thường xuyên trên địa bàn tỉnh...
Đến năm 2023, trên địa bàn tỉnh không còn xã khó khăn, đặc biệt khó khăn, HĐND tỉnh tiếp tục ban hành Nghị quyết số 22/2023/NQ-HĐND về tiếp tục thực hiện chính sách đặc thù của tỉnh quy định tại Nghị quyết số 204/2019/NQ-HĐND và Nghị quyết số 248/2020/NQ-HĐND cho đối tượng ở các xã ra khỏi vùng khó khăn và các xã, thôn ra khỏi diện đặc biệt khó khăn trên địa bàn tỉnh để kéo dài các chính sách hỗ trợ bán trú cho các đối tượng trên địa bàn tỉnh nhằm đảm bảo việc thực hiện chính sách được tiếp tục cho vùng DTTS miền núi.
Những chính sách này đã giúp giảm gánh nặng kinh tế cho nhiều gia đình, góp phần duy trì tỷ lệ học sinh tiểu học và THCS vùng DTTS đạt mức rất cao, nhiều chỉ tiêu tiệm cận 100%.
Giáo viên vùng cao: Điểm tựa nâng tầm chất lượng
Phát triển nguồn nhân lực không chỉ dựa vào cơ sở vật chất, mà cần dựa vào đội ngũ người thầy. Những năm qua, ngành GD&ĐT đã tập trung bồi dưỡng, nâng chuẩn, đào tạo lại đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý ở vùng DTTS.
100% giáo viên được tham gia các lớp tập huấn chuyên môn, bồi dưỡng phương pháp dạy học mới, kỹ năng tổ chức hoạt động bán trú, nội trú, kỹ năng hỗ trợ học sinh DTTS trong học tập và giao tiếp. 100% cán bộ quản lý, giáo viên các trường PTDT nội trú đã hoàn thành các mô-đun bồi dưỡng và tham gia đầy đủ các hoạt động bồi dưỡng thường xuyên theo quy định. Nhiều chuyên đề bồi dưỡng về văn hóa dân tộc, năng lực quản trị nhà trường, tin học, ngoại ngữ được triển khai thường xuyên.
Nhờ đó, giáo viên vùng cao không chỉ đạt chuẩn về bằng cấp, mà còn từng bước làm chủ công nghệ, phương pháp dạy học hiện đại, tự tin triển khai chương trình giáo dục phổ thông mới.
Ngôn ngữ luôn là rào cản lớn đối với học sinh DTTS. Nhận thức rõ điều đó, Quảng Ninh triển khai hiệu quả Đề án tăng cường tiếng Việt, giúp trẻ mầm non và học sinh tiểu học DTTS có vốn tiếng Việt vững chắc để tiếp thu kiến thức.
100% trường vùng DTTS tổ chức các hoạt động tăng cường tiếng Việt. Nhiều mô hình sáng tạo như: “Ngày hội tiếng Việt”, thi kể chuyện, giới thiệu sách, giao lưu văn hóa… đã khiến việc học trở nên gần gũi, sinh động hơn.
Nhờ đó, học sinh mạnh dạn hơn, tự tin hơn; tỷ lệ hoàn thành chương trình lớp học và hoàn thành chương trình tiểu học đạt gần như tuyệt đối. Đây là nền tảng rất quan trọng để các em tiếp tục học lên cao hơn, và để vùng DTTS có nguồn nhân lực chất lượng trong tương lai.
Cô giáo Lê Thị Sinh, điểm trường Sơn Hải, Trường TH&THCS Nam Sơn, xã Ba Chẽ cho biết: “Là người sinh ra trong vùng đồng bào dân tộc, tôi thấu hiểu những khó khăn của học sinh: Rào cản ngôn ngữ, nếp sinh hoạt, tâm lý ngại hỏi. Vì vậy khi đứng lớp, tôi luôn cố gắng kết hợp kiến thức với văn hóa bản địa để các em dễ tiếp thu hơn. Những năm gần đây, cơ sở vật chất của trường được đầu tư rất khang trang, thiết bị dạy học hiện đại, giáo viên cũng được tập huấn thường xuyên về phương pháp mới, chuyển đổi số, dạy học phân hoá… nên hiệu quả giảng dạy tăng lên rõ rệt. Điều tôi vui nhất là các em mạnh dạn tự tin hơn rất nhiều. Tôi tin rằng nếu chính sách hỗ trợ vùng DTTS tiếp tục được duy trì như hiện nay, thế hệ trẻ người dân tộc chúng tôi sẽ có thêm nhiều cơ hội để vươn lên và đóng góp cho quê hương”.
Song song với các hoạt động dạy học, ngành GD&ĐT còn chú trọng triển khai Đề án giảm thiểu tảo hôn và hôn nhân cận huyết. 12 diễn đàn giáo dục pháp luật và sức khỏe sinh sản đã được tổ chức, thu hút hơn 4.000 học sinh và giáo viên vùng DTTS. Tại mỗi diễn đàn, học sinh được đối thoại trực tiếp với bác sĩ sản khoa, được xem tiểu phẩm, phóng sự và tham gia trò chơi tương tác nhằm hiểu rõ hậu quả của tảo hôn. Một kết quả đáng ghi nhận: Trong thời gian qua, không có trường hợp học sinh DTTS tảo hôn. Đây không chỉ là kết quả của truyền thông trong nhà trường, mà còn thể hiện sự chuyển biến tích cực trong nhận thức của gia đình và cộng đồng.
Song song với đó, ngành Giáo dục đã đẩy mạnh tuyên truyền pháp luật trong nhà trường, từ an ninh mạng, giao thông, phòng chống ma túy đến bạo lực học đường. Hàng trăm tài liệu, tờ rơi, chuyên đề được phát đến học sinh; nhiều cuộc thi pháp luật quy mô toàn tỉnh được tổ chức.
Với học sinh DTTS, hoạt động này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, giúp các em hiểu biết pháp luật, tự tin hội nhập, trở thành những công dân có trách nhiệm, đóng góp vào sự phát triển của cộng đồng.
Em Lý Thị Mai, Trường TH&THCS Nam Sơn, xã Ba Chẽ chia sẻ: “Trước đây em và nhiều bạn thường rất ngại tham gia các buổi tuyên truyền vì nghĩ đó chỉ là nghe giảng lý thuyết. Nhưng khi nhà trường đổi mới hình thức bằng các cuộc thi tìm hiểu pháp luật, diễn đàn về phòng chống tảo hôn hay bạo lực học đường, chúng em được trực tiếp thảo luận, đóng tiểu phẩm nên thấy gần gũi và dễ hiểu hơn rất nhiều.
Nhờ những hoạt động ấy, em biết cách tự bảo vệ mình trên mạng, không kết bạn với người lạ, không chia sẻ thông tin cá nhân bừa bãi. Về vấn đề tảo hôn, chúng em được nghe các cô bác sĩ phân tích hậu quả nên ai cũng có ý thức hơn. Nhiều bạn trong lớp còn tuyên truyền lại cho gia đình và hàng xóm.
Ở Quảng Ninh, dạy ngoại ngữ không còn là mục tiêu riêng của các trường thành phố. Thông qua Đề án nâng cao chất lượng dạy và học ngoại ngữ giai đoạn 2023-2025, các trường vùng DTTS được tiếp cận các chương trình, hoạt động ngoại ngữ phong phú: tập huấn giáo viên, câu lạc bộ tiếng Anh, ngày hội tiếng Anh, thi tranh biện…
Em Vi Nhật Hà, lớp 6A, Trường THCS Tình Húc, xã Bình Liêu cho biết: Chúng em thích nhất là phòng tin học, vì trước đây chưa bao giờ được học trên máy tính. Giờ tuần nào cũng có tiết thực hành, thầy cô còn hướng dẫn chúng em học tiếng Anh qua phần mềm. Có điều kiện như vậy, chúng em càng muốn cố gắng hơn để có kết quả học tập tốt hơn”.
Đặc biệt, tiếng Trung được giảng dạy tại 15 trường THCS và THPT khu vực biên giới, giúp học sinh thích ứng tốt với môi trường giao thương cửa khẩu, nơi nhu cầu tuyển dụng lao động biết tiếng Trung rất lớn. Đây là hướng mở quan trọng để nâng cao khả năng tìm kiếm việc làm của thanh niên DTTS ngay tại quê hương.
Bước chuyển mạnh cho giai đoạn mới
Để tạo nguồn nhân lực tại chỗ, giai đoạn 2021-2025, hệ thống giáo dục nghề nghiệp của tỉnh đã tuyển sinh hơn 173.800 người, trong đó hơn 2.400 học viên là người DTTS được hỗ trợ đào tạo nghề.
Nhiều em sau đào tạo đã có việc làm ổn định tại các khu công nghiệp, khu du lịch, dịch vụ biên mậu hoặc trở về phát triển kinh tế gia đình. Đây là minh chứng rõ ràng cho hiệu quả của việc định hướng nghề nghiệp từ sớm cho thanh niên vùng DTTS.
Dù đạt nhiều kết quả tích cực, giáo dục vùng DTTS vẫn đối mặt không ít khó khăn như: Đời sống người dân ở nhiều xã vùng cao còn hạn chế, ảnh hưởng đến việc đầu tư học tập cho con; Một bộ phận phụ huynh còn tư tưởng cho con nghỉ học sớm để lao động; Vẫn thiếu giáo viên ở một số môn đặc thù; chính sách thu hút giáo viên vùng khó chưa đủ hấp dẫn; Công tác mua sắm thiết bị dạy học còn vướng thủ tục.
Giải quyết được những hạn chế này sẽ là chìa khóa để Quảng Ninh tiếp tục nâng cao chất lượng nguồn nhân lực DTTS trong giai đoạn tiếp theo.
Theo định hướng của tỉnh và ngành GD&ĐT, thời gian tới, Quảng Ninh tiếp tục đặt trọng tâm vào việc hoàn thiện cơ chế, chính sách ưu tiên vùng DTTS; tiếp tục đầu tư cơ sở vật chất theo hướng hiện đại; nâng cao chất lượng dạy học, đặc biệt là tiếng Việt, ngoại ngữ; đổi mới giáo dục hướng nghiệp và tăng cường liên kết đào tạo nghề; phát triển đội ngũ giáo viên đủ về số lượng, mạnh về chất lượng; đẩy mạnh chuyển đổi số trong nhà trường. Đây sẽ là nền tảng để hình thành thế hệ công dân trẻ người DTTS có tri thức, kỹ năng, bản lĩnh và khả năng hội nhập tốt - yếu tố quan trọng để Quảng Ninh phát triển bền vững.
Nhìn lại chặng đường 2021-2025, có thể thấy rõ: Giáo dục vùng đồng bào DTTS đã và đang là điểm sáng trong bức tranh phát triển chung của Quảng Ninh. Từ chính sách đến thực tiễn, từ lớp học đến cộng đồng, mọi nỗ lực đều hướng đến mục tiêu lớn nhất: Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tạo cơ hội vươn lên bền vững cho con em vùng DTTS.
Bằng những bước đi chắc chắn, đồng bộ và nhân văn, Quảng Ninh đã và đang xây dựng một xã hội học tập toàn diện, mọi học sinh dù ở vùng núi, vùng biên hay hải đảo đều có cơ hội phát triển đầy đủ nhất.
Nguồn: https://baoquangninh.vn/but-pha-nang-chat-luong-nhan-luc-vung-dan-toc-thieu-so-3386630.html






Bình luận (0)