Trước năm 2012, tại Việt Nam, gửi vàng tiết kiệm và cho vay cầm cố vàng là những hoạt động tài chính rất phổ biến tại các ngân hàng thương mại.
Cho vay cầm cố vàng, gửi vàng tiết kiệm từng phổ biến nhưng sau đó bị siết lại
Với hoạt động gửi vàng tiết kiệm, thời điểm đó, người dân mang vàng vật chất đến ngân hàng gửi và được cấp sổ tiết kiệm ghi rõ số lượng vàng gửi, kỳ hạn, lãi suất… Lãi suất khi ấy thậm chí được trả bằng vàng hoặc quy đổi ra tiền, tùy ngân hàng và quy định tại khi đó.
Ở không ít điểm giao dịch của các ngân hàng, người đi đường dễ dàng nhận ra tấm bảng cầm cố vàng có lãi suất. Lý do những hoạt động này hút tiền của người dân là tâm lý chuộng vàng, coi vàng là nơi lưu giữ tài sản an toàn. Bên cạnh đó là lo ngại rủi ro có thể xảy ra khi giữ vàng tại nhà như trộm cắp, cháy nổ… Trong khi đó, gửi vàng tại ngân hàng vừa giữ được giá trị và có thêm lãi suất.
Từ phía các nhà băng, những đơn vị này có thể tận dụng nguồn vàng huy động để cho vay vàng (đặc biệt là cho các doanh nghiệp cần vốn bằng vàng) hoặc bán vàng để có thêm nguồn vốn phục vụ mục đích kinh doanh.
Tuy nhiên, điều này cũng khiến các ngân hàng có nguy cơ rơi vào rủi ro biến động giá vàng, rủi ro chênh lệch kỳ hạn (huy động ngắn, cho vay dài), và rủi ro thanh khoản vàng (đến hạn trả vàng mà không có đủ vàng vật chất để hoàn trả).
Hoạt động cho vay cầm cố vàng cũng phổ biến trong giai đoạn giá vàng tăng mạnh năm 2009-2011. Khi ấy, người dân hoặc doanh nghiệp có thể mang vàng đến ngân hàng thế chấp (cầm cố) để vay tiền mặt. Ngân hàng sẽ giữ vàng vật chất trong kho và hoàn trả khi người vay tất toán khoản vay. Người dân khi đó không cần bán vàng mà vẫn có tiền sử dụng. Chưa kể, nếu giá vàng tăng, vàng dù “ở yên một chỗ”, vẫn sinh lời.
Tuy nhiên, điều này dẫn đến hạn chế cho phía các ngân hàng do nếu giá vàng biến động mạnh, rủi ro tài sản thế chấp không đủ. Bên cạnh đó là rủi ro thanh khoản vàng nếu người gửi đồng loạt rút và áp lực quản lý vàng vật chất khi cần đến kho bảo quản an toàn, nhân lực bảo vệ, kiểm kê…
Chưa kể, theo giới chuyên gia, việc này có thể tạo ra việc ngân hàng huy động vàng ngắn hạn nhưng cho vay dài hạn, dễ mất cân đối. Một số ngân hàng dùng vàng huy động để bán lấy tiền, đến lúc người dân rút vàng thì không có đủ vàng vật chất trả lại, dẫn đến nguy cơ đổ vỡ hệ thống. Điều này cũng tạo áp lực lên thị trường ngoại hối do phải dùng ngoại hối để nhập khẩu vàng.

Gửi vàng tiết kiệm hoặc dùng vàng làm tài sản thế chấp vay từng là một hoạt động phổ biến (Ảnh minh họa: Thành Đông).
Trước nguy cơ mất ổn định thị trường vàng và tiền tệ, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Thông tư 11/2011 và sau đó là Thông tư 12/2012, yêu cầu các ngân hàng chấm dứt huy động và cho vay vốn bằng vàng từ ngày 30/6/2012. Các nhà băng cũng phải chuyển toàn bộ số dư huy động vàng sang hình thức giữ hộ vàng không trả lãi.
Hàng loạt công văn yêu cầu các tổ chức tín dụng phải kiểm soát chặt chẽ hoạt động cho vay có bảo đảm (cầm cố, thế chấp) bằng vàng được đưa ra tại thời điểm ấy.
Nhà điều hành tiền tệ cũng yêu cầu các ngân hàng thương mại phải kiểm tra chặt chẽ việc sử dụng vốn vay của khách hàng. Đồng thời, các tổ chức tín dụng cũng phải cam kết chịu trách nhiệm trước Ngân hàng Nhà nước nếu cho tổ chức, cá nhân vay vốn để đầu cơ vàng, gây rối loạn thị trường vàng, ngoại hối.
Cơ quan quản lý vàng cũng yêu cầu thanh tra, giám sát ngân hàng và Ngân hàng Nhà nước chi nhánh các tỉnh, thành phố giám sát chặt chẽ hoạt động cho vay vàng thế chấp, cầm cố bằng vàng của các tổ chức tín dụng; lên kế hoạch thực hiện kiểm tra, xử lý với các trường hợp vi phạm và báo cáo.
Thời điểm hiện tại: Ngân hàng được giữ hộ vàng
Đến hiện tại, ngân hàng không còn huy động vàng hay cho vay bằng vàng. Vàng chỉ còn được dùng làm tài sản đảm bảo trong một số trường hợp đặc biệt và không phổ biến (các tổ chức tín dụng phi ngân hàng hoặc công ty tài chính, cầm đồ).
Ngân hàng Nhà nước kiểm soát chặt chẽ hoạt động liên quan đến vàng nhằm ổn định thị trường tài chính, chỉ các đơn vị được cấp phép mới được kinh doanh vàng. Hiện cả nước có 22 ngân hàng và 16 doanh nghiệp được cấp phép kinh doanh vàng miếng.
Đặc biệt, 4 ngân hàng TMCP Nhà nước gồm Agribank, BIDV, VietinBank, Vietcombank được phép bán vàng “bình ổn giá” từ tháng 6/2024. Các ngân hàng chỉ bán, không thu mua và giá vàng do Ngân hàng Nhà nước quyết định. Đặc biệt, khách hàng muốn mua vàng phải đặt hàng online và chờ thông báo tới nhận hàng.
Các ngân hàng vẫn được phép mở dịch vụ giữ hộ vàng có thu phí. Theo khảo sát của phóng viên, TPBank, Eximbank là các đơn vị công khai dịch vụ giữ hộ vàng với những quy định chi tiết về gửi vàng, rút vàng.

Dịch vụ giữ vàng tại Eximbank (Ảnh chụp màn hình).
Còn tại các ngân hàng khác, dịch vụ giữ hộ vàng không phổ biến, thay vào đó là dịch vụ bảo quản tài sản. Khách hàng vẫn có thể gửi vàng với dịch vụ này và tuân thủ điều kiện của từng ngân hàng.
Sàn giao dịch vàng sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho người dân?
Ngày 30/5, Ngân hàng Nhà nước công bố kết quả thanh tra với 6 đơn vị kinh doanh vàng lớn trên thị trường, trong đó có 2 ngân hàng là Ngân hàng TMCP Tiên Phong (TPBank) và Ngân hàng TMCP Xuất nhập khẩu Việt Nam (Eximbank).
Các ngân hàng về cơ bản được Ngân hàng Nhà nước đánh giá chấp hành những quy định về hoạt động kinh doanh vàng, báo cáo số liệu, có nhiều chuyển biến tích cực hơn về khâu chống rửa tiền... Tuy nhiên, những đơn vị này vẫn còn những vi phạm, như nhân viên tạo điều kiện cho các giao dịch "khống" vàng miếng; quy định về phòng chống rửa tiền; hóa đơn, chứng từ kế toán, thuế; báo cáo giao dịch đáng ngờ không đầy đủ; nhận giữ hộ vàng không niêm phong, không ghi series...
PGS.TS Nguyễn Hữu Huân, giảng viên Đại học Kinh tế TPHCM, cho biết việc thanh tra thị trường vàng gần đây có thể giúp hạn chế phần nào hoạt động đầu cơ, tích trữ, tuy nhiên đây chỉ là giải pháp tình thế, chưa thể xử lý tận gốc. Về dài hạn, cần các giải pháp đồng bộ, trong đó quan trọng nhất là phá bỏ thế độc quyền và thành lập sàn giao dịch vàng quốc gia, như chỉ đạo của Tổng Bí thư đã đề cập.
Hiện nay, hoạt động kinh doanh vàng của các ngân hàng thương mại không còn sôi động như trước. Trong số các ngân hàng được cấp phép kinh doanh vàng miếng, chỉ còn một vài đơn vị như TPBank và Eximbank còn duy trì hoạt động tích cực. Một số ngân hàng còn lại dù có giấy phép, nhưng dường như không còn quá mặn mà với lĩnh vực này, thay vào đó tập trung vào hoạt động kinh doanh ngoại tệ.

Dịch vụ giữ vàng tại TPBank (Ảnh chụp màn hình).
Ông Huân nhấn mạnh, để thị trường vàng hoạt động ổn định và minh bạch, cần tiến tới việc thành lập một sàn giao dịch vàng quốc gia do Ngân hàng Nhà nước quản lý. Giải pháp này sẽ là căn cơ để khắc phục tình trạng chênh lệch lớn giữa giá vàng trong nước và thế giới, đồng thời giúp thực thi chính sách tiền tệ một cách hiệu quả.
Theo ông, sàn giao dịch vàng sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho người dân gửi giữ hoặc giao dịch vàng, qua đó giúp thu hút lượng vàng đang tích trữ trong dân vào nền kinh tế. Điều này góp phần giảm áp lực nhập khẩu vàng vật chất, giảm cầu ngoại tệ và hạn chế tác động tiêu cực lên dự trữ ngoại hối.
Ông cũng đề xuất mô hình sàn giao dịch vàng theo hướng kết hợp cả giao dịch thực tế và giao dịch tài khoản. Mô hình này không chỉ giúp nâng cao tính thanh khoản mà còn đáp ứng nhu cầu đầu tư của người dân, đặc biệt là những nhà đầu tư mới. Khi nhu cầu nắm giữ vàng vật chất giảm, thị trường sẽ bớt áp lực và hoạt động ổn định hơn.
Để vận hành hiệu quả, sàn giao dịch vàng cần được đầu tư hệ thống công nghệ hiện đại, ứng dụng các giải pháp như blockchain nhằm đảm bảo an toàn, bảo mật và minh bạch. Đồng thời, cần có khung pháp lý rõ ràng và sự giám sát chặt chẽ của cơ quan quản lý để tránh lặp lại các sai lầm như thời kỳ sàn vàng tự phát trước năm 2012.

Chuyên gia cho rằng cần có sàn giao dịch vàng (Ảnh minh họa: Mạnh Quân).
Ngoài ra, việc thành lập sàn vàng sẽ góp phần thu hẹp chênh lệch giữa giá mua và giá bán vàng trong nước, vốn đang ở mức rất cao, khoảng 2 đến 3 triệu đồng mỗi lượng. Ông so sánh, trên thị trường chứng khoán, chênh lệch giá mua bán thường chỉ ở mức 0,3-0,4%, chủ yếu là phí giao dịch và thuế. Nếu sàn vàng quốc gia đi vào hoạt động, chênh lệch giá trong giao dịch vàng cũng sẽ được thu hẹp tương tự, góp phần kết nối thị trường trong nước với thế giới.
Chuyên gia kinh tế Lê Xuân Nghĩa, Thành viên Hội đồng tư vấn chính sách tài chính tiền tệ quốc gia, cũng cho rằng cần nghiên cứu sớm và học hỏi kinh nghiệm xây dựng sàn giao dịch vàng ở các nước, có thể kể đến Trung Quốc.
Ông nêu, Trung Quốc có 2 sàn giao dịch vàng, gồm sàn giao dịch vàng vật chất và sàn giao dịch vàng chứng chỉ. Tuy nhiên sàn giao dịch vàng vật chất hoạt động mạnh nhất. Trung Quốc cấp phép cho 5 ngân hàng thương mại quốc doanh, 4 ngân hàng nước ngoài và 4 công ty kinh doanh vàng bạc lớn nhất được phép nhập khẩu từ nước ngoài về và bán sỉ trên sàn.
Ông cho rằng sàn giao dịch vàng của Việt Nam cũng nên bán vàng vật chất theo phương thức bán sỉ cho các doanh nghiệp vàng, sau đó các doanh nghiệp mới bán lẻ ra dân chúng. “Khi có sàn thì sẽ có thống nhất về giá, công khai, minh bạch, không có chuyện lợi dụng độc quyền để đầu cơ, thao túng thị trường”, ông nêu.
Nguồn: https://dantri.com.vn/kinh-doanh/cac-ngan-hang-dang-lam-gi-voi-vang-20250604002103568.htm
Bình luận (0)