1. Sản phẩm đặc trưng của nghiên cứu khoa học công nghệ (KHCN)
Sản phẩm đặc trưng của nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ (R&D) gồm 2 dạng: Một là kiến thức mới dưới hình thức công bố khoa học trên các tạp chí có uy tín trong nước và quốc tế, chuẩn chung là bài báo quốc tế. Hai là sáng chế (bao gồm cả bằng giải pháp hữu ích). Nghị quyết 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị đã đặt ra mục tiêu, chỉ tiêu cụ thể về phát triển KHCN, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số đến năm 2030. Riêng R&D được xác định: số lượng công bố khoa học quốc tế tăng trung bình 10%/năm; số lượng đơn đăng ký sáng chế, văn bằng bảo hộ sáng chế tăng trung bình 16 - 18%/năm, tỉ lệ khai thác thương mại đạt 8 - 10%.
Về công bố quốc tế, hiện nay đã có trên 19.000 công bố/năm, tăng trưởng bình quân trên dưới 15% (2015-2024), đã cao hơn chỉ tiêu, đứng thứ 5 khối ASEAN và thứ 50 thế giới (trong 131 nước xếp hạng). Vấn đề là phần lớn công bố của ta đang đăng ở tạp chí uy tín trung bình trở xuống, còn diện uy tín hàng đầu chưa nhiều. Hơn nữa hơn 50% là đồng tác giả với người nước ngoài, còn thuần Việt dưới 50%. Đây là những hạn chế cần được cải thiện. Công bố trong nước trên 15.000 bài báo khoa học ở đẳng cấp thấp hơn, 80% chưa theo thông lệ quốc tế. Nâng cao chất lượng tạp chí trong nước cũng là vấn đề cần được quan tâm. Sáng chế (bao gồm giải pháp hữu ích) thì hạn chế hơn nhiều, mới trên 5.000 bằng, đứng thứ 5 khu vực và 78 thế giới, tăng trưởng trung bình trên dưới 10%/năm, còn phải nỗ lực phấn đấu mới đạt mục tiêu, nhất là sáng chế của người Việt. Hiện nay sáng chế đăng ký tại nước ta chủ yếu là của người nước ngoài chiếm 90%, còn người Việt chỉ 10%. Tỷ lệ thương mại hóa sáng chế khoảng dưới 5%, trong khi bình quân của thế giới là 10-15%, các nước phát triển trên 30%.
R&D nước ta đạt được sản phẩm như trên trong điều kiện đã có trên 19 vạn người tham gia nghiên cứu, trong đó trên 30 ngàn tiến sĩ, 13 ngàn phó giáo sư, 3 ngàn giáo sư, tăng trên 5%/năm (2015-2024), đứng đầu khối ASEAN và thứ 25 thế giới. Vốn đầu tư xã hội cho R&D tuy còn hạn chế, nhưng cũng đã đạt trên 50 ngàn tỷ đồng, tăng trưởng gần 20%/năm. Như vậy, R&D của Việt Nam tuy có xu hướng tăng trưởng khá dần lên, nhưng vẫn chưa đáp ứng yêu cầu cạnh tranh phát triển của đất nước và cũng chưa tương xứng với với tiềm lực KHCN, nhất là về sáng chế. Dẫn đến nước ta vẫn đang phụ thuộc chủ yếu vào công nghệ nước ngoài. Ngành nông nghiệp phụ thuộc tới 80-95% về giống, các ngành khác chủ yếu vẫn đang sử dụng công nghệ nhập nội. Sản xuất và xuất khẩu sản phẩm công nghệ cao trên 90% là khối FDI.
2. Một số vấn đề về đổi mới đầu tư và quản lý
Cùng với việc đặt ra mục tiêu, Nghị quyết 57-NQ/TW cũng định hướng tăng nguồn lực đầu tư cho R&D. Đến năm 2030, nguồn vốn xã hội đạt 2% GDP, với cơ cấu ngoài nhà nước 60%, nhà nước 40%; ngân sách chi cho R&D, ĐMST, CĐS chiếm 3% tổng chi ngân sách. Nhân lực R&D ĐMST, CĐS bảo đảm 12 người trên 1 vạn dân. Thực tế, cơ cấu đầu tư giữa nguồn ngân sách nhà nước và ngoài nhà nước hiện đã bảo đảm (40/60). Có điều tỷ lệ vốn/GDP mới chiếm khoảng 0,6%, còn thấp so với mặt bằng chung của khu vực và thế giới cũng như chỉ tiêu đặt ra (2%). Để tăng tỷ lệ đầu tư /GDP thì phải huy động chủ yếu nguồn ngoài nhà nước. Có thể thúc đẩy tăng số doanh nghiệp trích lập quỹ KHCN, hiện nay mới có 0,06%. Mặt khác, nguồn vốn của doanh nghiệp tuy chưa lớn (mới trên 35 ngàn tỷ đồng), nhưng rất khó rải ngân, tồn đọng lớn trên 50%. Một phần là do nhiều doanh nghiệp mới tiếp cận R&D. Một phần là do quy trình, thủ tục nghiên cứu vẫn đang thực hiện theo quy định chung (như khu vực công lập). Hướng tháo gỡ là khuyến khích, đẩy mạnh hợp tác giữa các nhà khoa học, tổ chức KHCN với doanh nghiệp. Đồng thời quy trình, thủ tục nghiên cứu trong khu vực ngoài nhà nước phải được quy định, hướng dẫn phù hợp, phát huy được tính tự chủ của doanh nghiệp. Còn so với tổng chi ngân sách thì tỷ lệ chi cho R&D cao hơn, đã chiếm 1%, kể cả lĩnh vực quân sự và an ninh thì cũng đã đến 2%. Định hướng tăng lên 3% bao gồm cả R&D, đổi mới sáng tạo (ĐMST),CĐS thì cũng không phải là quá cao. Nhân lực KHCN, ĐMST, CĐS đạt 12 người/1 vạn dân cũng không quá cao. Hiện nay, riêng nhân lực tham gia R&D đã trên 16 người/vạn dân, quy đổi theo thời gian toàn phần cũng đã trên 9 người. Theo Nghị quyết, đến năm 2030 phấn đấu có từ 40 - 50 tổ chức KHCN (bao gồm cả DN KHCN) được xếp hạng khu vực và thế giới, đây là lực lượng nòng cốt trong R&D của đất nước.
Nghị quyết 57-NQ/TW nhấn mạnh, việc sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện đồng bộ các quy định pháp luật về khoa học, công nghệ, đầu tư, ngân sách, nhân lực, cơ chế tài chính, thuế, thủ tục hành chính, sở hữu trí tuệ... để tháo gỡ các điểm nghẽn, rào cản, giải phóng sức sáng tạo, giải phóng nguồn lực. Điểm nghẽn lớn nhất cần được tháo gỡ toàn diện, triệt để hơn là mô hình đầu tư và quản lý R&D khu vực công lập. Khu vực này mấy năm gần đây tỷ trọng vốn ngân sách /tổng vốn xã hội đã giảm từ 80% xuống 40%, nhưng vẫn tăng đều bình quân trên 10%/năm và đã đạt 15 ngàn tỷ đồng (2024). Số nhiệm vụ KHCN các cấp cơ bản ổn định khoảng 3000 đề tài/năm. Bình quân 01 đề tài cấp quốc gia được đầu tư khoảng 4 tỷ đồng, đề tài cấp bộ 1,5 tỷ đồng, đề tài cấp tỉnh 1 tỷ đồng. Nhưng kết quả nghiên cứu của các đề tài do ngân sách đầu tư chỉ chiếm khoảng 10% về công bố khoa học và khoảng 2% về sáng chế, còn lại hầu hết là ngoài đề tài do nhà nước đầu tư (các trường đại học, các viện, trung tâm nghiên cứu thường xuyên theo chức năng, các doanh nghiệp, các nghiên cứu sinh tiến sĩ và phong trào lao động sáng tạo của quần chúng). Tỷ lệ thương mại hóa và chuyển giao kết quả nghiên cứu khối nhà nước đầu tư cũng hạn chế hơn rất nhiều so với khối ngoài nhà nước. Trong số công bố khoa học, bằng sáng chế và tỷ lệ thương mại hóa do ngân sách đầu tư thì chủ yếu thuộc đề tài cấp quốc gia (bao gồm đề tài do Quỹ KHCN quốc gia tài trợ), đề tài cấp bộ, còn đề tài cấp tỉnh không đáng kể. Khối cấp tỉnh hàng năm đầu tư trên 2000 ngàn đề tài, chiếm hơn 60% đề tài các cấp với kinh phí ngân sách hơn 2,5 ngàn tỷ đồng, chiếm 30% kinh phí cả nước. Kết quả không có công bố quốc tế đã đành, mà công bố trong nước cũng rất ít, có chăng là của các tổ chức KHCN Trung ương chủ trì đề tài của địa phương, còn các đơn vị khác của địa phương thì hầu như không có công bố. Đề tài, dự án KHCN cấp tỉnh không những chưa có sáng chế mà giải pháp hữu ích cũng rất hiếm.
Mô hình đầu tư và quản lý R&D khu vực công lập tuy đã đổi mới, nhưng vẫn còn nhiều bất cập. Nguồn ngân sách hiện vẫn đang phân tán theo các cấp hành chính. Đề tài cấp nhà nước do Bộ KHCN quản lý khoảng 30%; đề tài cấp bộ khoảng 30% (mỗi bộ, ban, ngành, đoàn thể trung ương trên dưới 01%); đề tài cấp tỉnh 30% (mỗi tỉnh thành phố trên dưới 0,5%); quỹ KHCN quốc gia 10%. Đầu tư như vậy là dàn trải, vừa không bảo đảm tập trung, có trọng tâm, trọng điểm về đối tượng nghiên cứu, vừa không không tập trung được cho các tổ chức KHCN lớn và các nhóm nghiên cứu mạnh. Hơn nữa lại trùng lặp, chồng chéo rất khó kiểm soát đề tài giữa các cấp và giữa các tỉnh với nhau, giữa đề tài nghiên cứu với chức năng thường xuyên của cơ quan chuyên môn nghiệp vụ, đơn vị tư vấn chuyên nghiệp. Các cấp hành chính đều trực tiếp duyệt danh mục đề tài, kinh phí, tuyển chọn đơn vị chủ trì và chủ nhiệm đề tài, tổ chức nghiệm thu, thanh quyết toán và nắm sản phẩm là không phù hợp với nền kinh tế thị trường. Gần đây, có mặt đã được tháo gỡ, nhà nước chỉ nắm sản phẩm R&D đối với lĩnh vực quốc phòng, an ninh, còn lại bàn giao cho đơn vị nghiên cứu hoặc đơn vị khác (theo nhu cầu và năng lực) để làm thủ tục đăng ký bản quyền, thương mại hóa, trực tiếp ứng dụng hoặc chuyển giao ứng dụng với cơ chế bảo đảm hài hòa quyền lợi giữa phía chủ trì, tác giả, bên ứng dụng và nhà nước. Nhưng việc xây dựng và thực hiện kế hoạch R&D, rải ngân, nghiệm thu, thanh quyết toán vẫn đang theo niên độ năm tài chính, không phù hợp với đặc điểm của R&D là thường xuyên, liên tục. Các nước phát triển từ lâu đã đầu tư ngân sách cho R&D thông qua Quỹ KHCN hoặc Công ty KHCN. Nghị quyết 57-NQ/TW cũng chủ trương phát triển quỹ KHCN công lập và quỹ KHCN doanh nghiệp, tập trung cho các tổ chức KHCN lớn và các nhóm nghiên cứu mạnh. Nhưng quỹ KHCN cũng cần được đổi mới về khung khổ pháp lý và nội dung hoạt động, nhất là quỹ cấp tỉnh. Hơn 10 năm qua, mới có 35 tỉnh thành lập quỹ, nhưng kém hiệu quả, một số nơi đã giải thể.
Công bố khoa học góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam, còn sáng chế, thương mại hóa và chuyển giao ứng dụng mới trực tiếp đóng góp tăng trưởng GDP. Đổi mới cơ cấu đề tài nghiên cứu cũng là vấn đề cần được quan tâm. Vì yếu nhất đang là sản phẩm có khả năng trở thành sáng chế hay giải pháp hữu ích. Nhưng đề tài nghiên cứu nhìn chung chủ yếu về các ngành cơ bản, các lĩnh vực nông nghiệp, xã hội nhân văn, còn lĩnh vực kỹ thuật, công nghệ không nhiều, nhất là đề tài cấp tỉnh. Tăng dự án hỗ trợ R&D cho doanh nghiệp theo cơ chế đối ứng vốn là một hướng khả thi để tăng trưởng sáng chế, chuyển giao ứng dụng.
Thủ tục tài chính đối với R&D quả là phức tạp, phiền hà, tuy vậy vẫn thu hút rất nhiều đơn vị và cá nhân đề xuất, đăng ký, bao gồm cả tổ chức KHCN và nhà khoa học chuyên nghiệp và cán bộ, công chức, viên chức đơn vị hành chính sự nghiệp, thường gấp 2-3 lần số cần tuyển chọn và hầu như tất cả, đều hoàn thành và hoàn thành tốt, xuất sắc đề tài. Chứng tỏ, đằng sau thủ tục tài chính phức tạp, thực chất việc kiểm soát về nội dung và sản phẩm có phần còn “nhẹ nhàng”, chịu sự tác động của nhiều mối quan hệ tế nhị. Tốt nhất là về thủ tục tài chính, sau khi đã có dự toán chi tiết và các bên liên quan đã thẩm định (cắt giảm bớt những phần bất hợp lý) thì có thể và nên khoán gọn theo đề tài. Ngược lại, sản phẩm đặt hàng nghiên cứu cần được xác định rõ hơn về số lượng và chất lượng, nhất là bài báo khoa học và công nghệ có khả năng đăng ký bản quyền. Nhưng thực tế, bằng sáng chế hay bằng giải pháp hữu ích thì khó “chạy”, còn bài báo khoa học, nhất là bài báo trong nước hoàn toàn có thể dùng tiền đề tài để “chạy”. Để tránh trùng lặp, đạo văn trong nghiên cứu, cần bắt buộc giao nộp đầy đủ, kịp thời kết quả của tất cả đề tài các cấp vào cơ sở dữ liệu trung tâm thông tin KHCN quốc gia. Và tất cả các cấp đều áp dụng phần mềm để khiểm soát chặt chẽ sự trùng lặp và đạo văn ở cả hai khâu là đầu vào (xác định danh mục đề tài cần nghiên cứu) và đầu ra (nghiệm thu kết quả nghiên cứu). Rất nhiều trường đại học đã sử dụng phần mềm để kiểm soát luận văn sinh viên, luận án nghiên cứu sinh. Nhiều cuộc thi, kể cả cuộc thi chính luận của Đảng cũng đã sử dụng phần mềm để sàng lọc sự trùng lặp và đạo văn. Thiết nghĩ, trong lĩnh vực R&D, nhất là khu vực công lập do ngân sách đầu tư lớn thì càng phải dùng công nghệ cao để kiểm soát. Kể cả giải thưởng KHCN, giải thường hội thi sáng tạo kỹ thuật do nguồn ngân sách tài trợ cũng vậy.
Một khía cạnh khác về đổi mới đầu tư và quản lý là tăng cường đầu tư gián tiếp. Lâu nay, ngân sách chủ yếu đầu tư trực tiếp cho nghiên cứu và tăng cường tiềm lực phục vụ nghiên cứu. Nhưng đầu tư cho đối tượng khác còn rất hạn chế. Cần giảm tỷ lệ đầu tư trực tiếp của ngân sách cho nghiên cứu, bù lại, tăng cường hỗ trợ doanh nghiệp với cơ chế đối ứng vốn (như đã đề cập), khuyến khích bằng chính sách ưu đãi về tín dụng và thuế, hỗ trợ công bố quốc tế, đăng ký bảo hộ sáng chế trong nước và nước ngoài... Thời gian thẩm định trên dưới 4 năm là quá dài, số lượng đơn tồn đọng rất lớn. Cần áp dụng công nghệ cao để rút gọn thời gian thẩm định và cấp bằng sáng chế. Nâng cao giải thưởng KHCN các cấp và giải thưởng Hội thi sáng tạo KHCN và các giải thưởng khác (do nhà nước tài trợ) liên quan đến KHCN hiện đang còn rất thấp so với mức đầu tư cho đề tài, nhất là cấp tỉnh (Toàn bộ chi cho hỗ trợ sáng chế và các giải thưởng trong năm chỉ mới bằng khoảng 50% chi cho 01 đề tài). Đầu tư gián tiếp như trên đỡ tốn kém, nhưng sẽ động viên được nhiều đối tượng (doanh nghiệp, nhà khoa học chuyên nghiệp và phong trào sáng tạo của quần chúng), qua đó, sẽ thúc đẩy tăng trưởng sản phẩm KHCN, nhất là về sáng chế./
Phan Đức Ngữ
Nguồn: https://sonla.dcs.vn/tin-tuc-su-kien/noi-dung/doi-moi-dau-tu-va-quan-ly-nghien-cuu-khoa-hoc-cong-nghe-5462.html
Bình luận (0)