Với diện tích rừng trồng được mở rộng và hệ thống chế biến gỗ ngày càng hiện đại, tỉnh Gia Lai sau khi sáp nhập đang sở hữu nền tảng lý tưởng để phát triển ngành lâm nghiệp theo hướng bền vững.
Sự gắn kết giữa vùng nguyên liệu và vùng chế biến không chỉ giúp nâng cao giá trị sản phẩm mà còn tạo ra chuỗi liên kết kinh tế hiệu quả, thúc đẩy xuất khẩu và sinh kế cho người dân.
Vùng nguyên liệu trồng rộng lớn
Tỉnh Gia Lai (cũ) có diện tích tự nhiên hơn 1,5 triệu ha, trong đó đất có rừng chiếm hơn 650.600 ha, tương đương 25% diện tích rừng toàn vùng Tây Nguyên và 4,3% diện tích rừng cả nước. Riêng rừng trồng đạt hơn 158.700 ha, bên cạnh 13.200 ha diện tích trồng chưa thành rừng. Giai đoạn 2021-2024, khu vực phía tây của tỉnh đã trồng mới hơn 33.100 ha rừng, sản lượng khai thác gỗ rừng trồng đạt trên 1 triệu m3, bình quân mỗi năm khai thác khoảng 254.000 m3. Mục tiêu đến năm 2025 là trồng mới 40.000 ha, tương đương 8.000 ha/năm.
Sau khi sáp nhập, tỉnh Gia Lai đã tạo điều kiện thuận lợi để kết nối vùng nguyên liệu phía tây với hệ thống chế biến phía đông. Các hiệp hội, công ty lâm nghiệp và ban quản lý rừng phòng hộ khu vực phía tây Gia Lai đã mở ra cơ hội hợp tác trong phát triển vùng nguyên liệu, xây dựng và duy trì chứng chỉ FSC, phát triển chuỗi cung ứng minh bạch từ rừng trồng đến chế biến và tiêu thụ. Hiện nay, nhiều địa phương như Đăk Song, Kbang, Đăk Pơ, Mang Yang, Ia Grai… đang trở thành vùng nguyên liệu trọng điểm. Đặc biệt, tại các xã Đăk Song và Sró, người dân đã tự nguyện kê khai đất lâm nghiệp bị lấn chiếm để trồng rừng, với diện tích hơn 2.000 ha. Mô hình liên kết giữa Công ty TNHH MTV Lâm nghiệp Kông Chro và người dân địa phương đã mang lại những hiệu quả rõ rệt khi diện tích trồng rừng tăng nhanh, đồng bào dân tộc thiểu số có thêm thu nhập ổn định, đời sống cải thiện rõ rệt. Trong khi đó, tại các địa bàn khác như Pleiku, Chư Sê, Chư Pưh lại là nơi tập trung các cơ sở chế biến gỗ quy mô lớn. Đây được ví như “thủ phủ chế biến gỗ” của tỉnh với hàng chục doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực sản xuất gỗ xẻ, gỗ ghép thanh, viên nén sinh khối và đồ gỗ xuất khẩu. Có thể thấy, sự kết nối giữa vùng nguyên liệu và vùng chế biến không chỉ giúp giảm chi phí vận chuyển, mà còn tạo điều kiện thuận lợi để hình thành chuỗi giá trị lâm nghiệp khép kín, từ trồng rừng, khai thác, chế biến đến tiêu thụ sản phẩm. Điều này mở ra cơ hội lớn để Gia Lai nâng cao giá trị sản phẩm gỗ, mở rộng thị trường xuất khẩu, đặc biệt là các thị trường khó tính như EU, Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ…
Chủ tịch Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Bình Định Nguyễn Sỹ Hòe nhận định, tỉnh Gia Lai sau khi sáp nhập có tiềm năng lớn để phát triển ngành lâm nghiệp theo hướng bền vững, nhưng vẫn còn nhiều rào cản. Hiệp hội kiến nghị tỉnh cần có chính sách hỗ trợ kết nối vùng nguyên liệu với các trung tâm chế biến; xây dựng chuỗi cung ứng ổn định; đầu tư nhà máy cưa xẻ, sấy gỗ sơ chế tại chỗ nhằm giảm chi phí, nâng cao năng lực cạnh tranh. Đồng thời đẩy mạnh quy hoạch và hỗ trợ người dân, doanh nghiệp mở rộng rừng trồng tập trung, có chứng chỉ quốc tế tại khu vực phía tây của tỉnh. Ngoài ra, việc chia sẻ thông tin thị trường xuất khẩu, phát triển thương hiệu thông qua xúc tiến thương mại quốc tế, liên kết với các ngành hàng xuất khẩu chủ lực, cùng với việc sử dụng cảng Quy Nhơn làm cửa ngõ chính sẽ giúp ngành gỗ địa phương mở rộng thị trường, giảm chi phí logistics và nâng cao giá trị sản phẩm xuất khẩu.
Để ngành gỗ vươn xa
Theo đánh giá của ngành chức năng, việc hình thành chuỗi giá trị lâm nghiệp khép kín sẽ giúp Gia Lai chuyển dịch sản xuất gỗ nguyên liệu sang chế biến sâu, tăng tỷ trọng gỗ xẻ, gỗ có chứng chỉ FSC, giảm phụ thuộc vào nhập khẩu. Đồng thời, tạo thêm việc làm cho lao động nông thôn, nâng cao thu nhập và góp phần bảo vệ môi trường sinh thái. Tỉnh Gia Lai đang khuyến khích các doanh nghiệp chế biến gỗ đầu tư và vùng nguyên liệu, liên kết với người dân theo mô hình “trồng rừng có hợp đồng bao tiêu sản phẩm”. Bên cạnh đó, các chính sách hỗ trợ về đất đai, vốn vay, kỹ thuật trồng rừng và cấp chứng chỉ rừng bền vững cũng đang được triển khai đồng bộ.
Ông Hồ Đức Lâm, một chủ rừng sở hữu 100 ha rừng trồng ở tỉnh Gia Lai cho biết, đã có những kết quả tích cực ngoài mong đợi khi tham gia dự án quản lý rừng bền vững được triển khai trong giai đoạn 2021-2024. Trước đây, ông Lâm thực hành lâm nghiệp truyền thống với mục tiêu sản xuất sinh khối trên diện tích 100 ha rừng trồng keo. Sau khi quan sát các biện pháp tỉa cành, tỉa thưa tiên tiến từ mô hình trình diễn của dự án quản lý rừng bền vững, ông đã mạnh dạn chuyển đổi 12 ha rừng trồng của mình sang mô hình sản xuất gỗ lớn theo hướng quản lý rừng bền vững. Sau khi làm theo, năm 2023, ông nhận thấy nhiều lợi ích rõ rệt: cây mọc thẳng hơn, khỏe hơn và ít bị gãy đổ do gió bão. Điều này đã thuyết phục ông tiếp tục mở rộng thêm 30 ha nữa. Thành công của ông nhanh chóng thu hút sự chú ý của các hộ rừng chung quanh. Họ tìm đến ông để học hỏi kinh nghiệm. Thay vì giữ riêng cho mình, ông Lâm đã cởi mở chia sẻ kiến thức, khuyến khích những người khác cùng áp dụng.
Trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng phức tạp, tỉnh Gia Lai đang từng bước chuyển đổi mô hình quản lý rừng theo hướng bền vững và thân thiện với môi trường. Đây vừa là giải pháp bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, vừa là chiến lược phát triển kinh tế-xã hội dài hạn, gắn với trách nhiệm cộng đồng và cam kết quốc tế về giảm phát thải khí nhà kính. Hiện nay, rừng trồng chủ yếu là keo được khai thác theo chu kỳ ngắn để phục vụ sản xuất dăm gỗ. Tuy nhiên, mô hình này đang dần được thay thế bằng các lâm phần quản lý theo chu kỳ dài, hướng tới sản xuất gỗ lớn (gỗ xẻ) phục vụ ngành chế biến trong nước. Việc chuyển đổi này không chỉ nâng cao hiệu quả kinh tế, mà còn mang lại giá trị xã hội rõ nét. Các hộ trồng rừng nhỏ, cộng đồng sống gần rừng được hỗ trợ kỹ thuật, tiếp cận thị trường và tham gia vào chuỗi giá trị lâm nghiệp. Từ đó, sinh kế người dân được cải thiện, góp phần giảm nghèo và phát triển bền vững.
Bà Carina van Weelden, Quản lý thực hiện dự án, Tổ chức Hợp tác quốc tế Đức (GIZ) cho biết, là thành viên của Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (UNFCCC), Việt Nam đã cam kết trong Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC) năm 2022 sẽ góp phần giữ mức tăng nhiệt độ toàn cầu dưới 1,5 độ C. Việc giảm phát thải khí nhà kính (GHG) là điều cốt yếu để ứng phó hiệu quả với biến đổi khí hậu. Theo Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu, đến năm 2030 ngành lâm nghiệp dự kiến đạt mức phát thải âm, tức là hấp thụ nhiều khí nhà kính hơn lượng phát thải, với ít nhất 95 triệu tấn CO2 tương đương được hấp thụ. Thời gian qua, dự án hỗ trợ quản lý rừng bền vững tại Gia Lai đã giúp các chủ rừng và bên liên quan nâng cao hiểu biết về tiềm năng của tín chỉ các-bon rừng, một công cụ tài chính mới trong ứng phó biến đổi khí hậu. Thông qua các hoạt động đào tạo, tập huấn và đo đạc lượng các-bon trong rừng, các chủ rừng có thể định hướng hoạt động quản lý theo tiêu chuẩn quốc tế, sẵn sàng tham gia thị trường tín chỉ các-bon trong tương lai. Đây là cơ hội để ngành lâm nghiệp không chỉ đóng góp vào mục tiêu giảm phát thải, mà còn tạo nguồn thu mới cho người dân và doanh nghiệp.
Nguồn: https://baolamdong.vn/hinh-thanh-chuoi-gia-tri-lam-nghiep-khep-kin-tai-gia-lai-395214.html
Bình luận (0)