Một số điểm bất cập trong chính sách tài chính đối với doanh nghiệp khai khoáng
Tại Hội thảo "Chính sách tài chính cho ngành công nghiệp khoáng sản" do Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) phối hợp cùng Hội Khoa học và Công nghệ Mỏ Việt Nam tổ chức ngày 15/10, ông Đậu Anh Tuấn, Phó Tổng Thư ký, Trưởng Ban Pháp chế VCCI, cho biết doanh nghiệp khai khoáng hiện đang thực hiện song song hai nghĩa vụ tài chính lớn: thuế tài nguyên theo Luật Thuế tài nguyên 2009 và tiền cấp quyền khai thác khoáng sản theo Luật Khoáng sản 2010, tiếp tục được kế thừa trong Luật Địa chất và Khoáng sản 2024.

Ông Đậu Anh Tuấn, Phó Tổng Thư ký, Trưởng Ban Pháp chế VCCI nêu một số bất cập đối với ngành khoáng sản hiện nay. Ảnh: VGP/VH
Theo ông Tuấn, cả hai khoản thu này đều nhằm mục tiêu đảm bảo Nhà nước thu được phần giá trị từ tài sản công là tài nguyên khoáng sản. Tuy nhiên, việc áp dụng đồng thời hai cơ chế thu trên cùng một đối tượng đang đặt ra thách thức về tính hợp lý và hiệu quả thực thi. "Nghĩa vụ tài chính hiện có thể chiếm tới 30-40% doanh thu của doanh nghiệp, trong khi thông lệ quốc tế chỉ khoảng một nửa con số này", ông nhận định.
Tại nhiều quốc gia có ngành khai khoáng phát triển như Australia, Canada hay Indonesia, doanh nghiệp thường chỉ chịu một loại royalty linh hoạt (tương tự thuế tài nguyên), kết hợp với thuế thu nhập doanh nghiệp. Cách tiếp cận này giúp cân bằng giữa mục tiêu thu ngân sách và khuyến khích đầu tư chế biến sâu, ứng dụng công nghệ hiện đại.
Từ góc độ quản trị tài chính, ông Nguyễn Văn Phụng, chuyên gia cao cấp về thuế và quản trị doanh nghiệp, nguyên Cục trưởng Cục Thuế Doanh nghiệp lớn (Bộ Tài chính), cho biết các doanh nghiệp khai khoáng đang thực hiện nhiều nghĩa vụ tài chính khác nhau, bao gồm nghĩa vụ về đất đai, môi trường và thuế, phí, lệ phí. Riêng nhóm thuế đã có tới 9 loại, trong đó có thuế tài nguyên, thuế thu nhập doanh nghiệp, tiền cấp quyền khai thác khoáng sản, thuế bảo vệ môi trường, lệ phí cấp phép hoạt động khoáng sản, cùng các khoản đóng góp cho hạ tầng và công tác bảo vệ môi trường địa phương.
"Riêng thuế thu nhập doanh nghiệp đối với lĩnh vực khai khoáng có thể lên tới 50%, trong khi mức chung của nền kinh tế chỉ khoảng 25%", ông Phụng cho biết, đồng thời nhấn mạnh rằng mức thuế cao và cơ chế thu chồng chéo dễ làm tăng chi phí tuân thủ, giảm hiệu quả đầu tư.
Đặc biệt, giữa thuế tài nguyên và tiền cấp quyền khai thác khoáng sản vẫn tồn tại sự giao thoa đáng kể khi cùng dựa trên giá trị tài nguyên khai thác. Hai khoản thu này lại được quản lý bởi hai cơ quan khác nhau, khiến doanh nghiệp phải kê khai, nộp và quyết toán riêng biệt. Theo ông Phụng, việc nghiên cứu hợp nhất hoặc điều chỉnh cơ chế thu có thể giúp đảm bảo nguồn thu ngân sách, đồng thời giảm gánh nặng hành chính và chi phí tuân thủ cho doanh nghiệp.

Ông Nguyễn Văn Phụng, nguyên Cục trưởng Cục Thuế Doanh nghiệp lớn: Thuế tài nguyên và tiền cấp quyền khai thác khoáng sản vẫn tồn tại sự giao thoa. Ảnh: VGP/VH
Việc rà soát, hoàn thiện chính sách tài chính đối với ngành khai khoáng được các chuyên gia cho rằng không chỉ giúp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, mà còn góp phần tạo môi trường đầu tư minh bạch, công bằng, khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào chế biến sâu và phát triển bền vững.
Đại diện cộng đồng doanh nghiệp, ông Phan Chiến Thắng, Phó Tổng Giám đốc Masan High-tech Materials, chia sẻ rằng trong quá trình lập kế hoạch tài chính, các doanh nghiệp thường dự kiến thuế tài nguyên ở mức dưới 10%. Tuy nhiên, khi dự án đi vào hoạt động, mức thuế thực tế có thể dao động từ 6–25%, khiến việc cân đối tài chính và tính toán hiệu quả đầu tư gặp nhiều khó khăn.
Đối với tiền cấp quyền khai thác khoáng sản, mặc dù được xem là chính sách mới, song thực tế đã được triển khai hơn một thập kỷ và nay bộc lộ một số điểm cần điều chỉnh. Việc thu khoản tiền này sau khi dự án đã đi vào vận hành phần nào ảnh hưởng tới tiến độ và dòng tiền của doanh nghiệp. Ông Thắng dẫn chứng, hiện Masan High-tech Materials đang tạm nộp khoảng 160 tỷ đồng mỗi năm. Khi cộng thêm phí bảo vệ môi trường, tổng các loại thuế, phí (chưa tính thuế thu nhập doanh nghiệp) chiếm khoảng 24–26% doanh thu, tác động nhất định đến sức cạnh tranh của ngành.
Từ thực tiễn đó, doanh nghiệp mong muốn Nhà nước tăng cường đối thoại, tham vấn thực chất với khu vực tư nhân trong quá trình xây dựng chính sách, nhằm đảm bảo sự hài hòa giữa mục tiêu thu ngân sách, quản lý tài nguyên và khuyến khích đầu tư. Đồng thời, cần xem xét tổng thể chính sách tài chính và phi tài chính để vừa khai thác hiệu quả tiềm năng khoáng sản, vừa bảo đảm cân bằng với yêu cầu bảo vệ môi trường và phát triển bền vững.

Ông Phan Chiến Thắng, Phó Tổng Giám đốc Masan High-tech Materials, nêu những bất cập mà cộng đồng doanh nghiệp gặp phải. Ảnh: VGP/VH
Doanh nghiệp cũng cho rằng, hiện nay giữa thuế tài nguyên và tiền cấp quyền khai thác khoáng sản vẫn còn những điểm giao thoa về phạm vi điều chỉnh. Để tránh chồng chéo, doanh nghiệp kiến nghị nghiên cứu khả năng điều chỉnh, đơn giản hóa cơ chế thu, hướng tới tỷ lệ hợp lý hơn.
Xem xét điều chỉnh chính sách theo hướng minh bạch, phù hợp thực tiễn
Từ góc độ quản lý nhà nước, đại diện Cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam (Bộ Tài nguyên và Môi trường) khẳng định: quy định về tiền cấp quyền khai thác khoáng sản được xây dựng trên nguyên tắc Nhà nước là đại diện chủ sở hữu tài nguyên, có quyền thu lợi khi trao quyền khai thác "tài sản công" cho tổ chức, cá nhân.
Theo thống kê, từ khi cơ chế này được áp dụng năm 2014 đến hết tháng 7/2025, tổng số tiền thu nộp ngân sách nhà nước đạt hơn 53.500 tỷ đồng. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai, nhiều vướng mắc đã bộc lộ. Việc tính tiền cấp quyền dựa trên trữ lượng khoáng sản phê duyệt không bảo đảm tính chính xác do sai số theo từng cấp trữ lượng. Doanh nghiệp buộc phải nộp tiền trong nửa đầu thời hạn cấp phép, khi dự án chưa ra sản phẩm, dẫn đến áp lực vốn lớn, ảnh hưởng dòng tiền và tiến độ đầu tư.
Nhằm khắc phục, Nghị định 193/2025/NĐ-CP đã điều chỉnh theo hướng đơn giản hóa, minh bạch và dễ thực hiện hơn. Cụ thể, nghị định quy định lại phương thức thu - nộp tiền cấp quyền, cơ chế phê duyệt, điều chỉnh, gia hạn nộp và quyết toán khoản thu, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp và giảm gánh nặng quản lý.
Đại diện Bộ Tài nguyên và Môi trường cho biết, Bộ sẵn sàng tiếp thu ý kiến của doanh nghiệp và chuyên gia để tiếp tục hoàn thiện chính sách trong thời gian tới, nhất là khi việc thu tiền cấp quyền không chỉ góp phần quan trọng cho ngân sách, mà còn là công cụ điều tiết hoạt động khai thác, bảo vệ tài nguyên và môi trường.
"Cần đảm bảo nguyên tắc hài hòa lợi ích - Nhà nước thu đúng, doanh nghiệp có thể phát triển, và địa phương có nguồn lực tái đầu tư cho hạ tầng, bảo vệ môi trường", đại diện Bộ nhấn mạnh.
Hướng tới chính sách tài chính bền vững cho ngành khoáng sản
Các chuyên gia cho rằng, đã đến lúc Việt Nam cần xây dựng một hệ sinh thái chính sách tài chính đồng bộ và linh hoạt cho ngành khai khoáng. Chính sách không nên dừng ở vai trò công cụ thu ngân sách, mà phải trở thành công cụ điều tiết phát triển, khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào công nghệ hiện đại, khai thác tiết kiệm tài nguyên và phục hồi môi trường sau khai thác.
Theo ông Đậu Anh Tuấn (VCCI), để đạt mục tiêu phát triển bền vững đến năm 2030, tầm nhìn 2045 theo Nghị quyết 10-NQ/TW của Bộ Chính trị, Việt Nam cần có cách tiếp cận mới trong thiết kế chính sách tài chính - "thu ít nhưng hiệu quả, thu minh bạch và công bằng". Điều này đòi hỏi phải rà soát toàn diện các khoản thu, tránh chồng chéo, tạo động lực cho doanh nghiệp chuyển đổi mô hình khai thác sang chế biến sâu, nâng cao giá trị gia tăng.
Cải cách chính sách tài chính cho ngành khoáng sản cũng đồng nghĩa với việc đổi mới phương thức quản lý nhà nước: từ quản lý theo sản lượng khai thác sang quản lý theo hiệu quả sử dụng tài nguyên và đóng góp cho phát triển kinh tế - xã hội.
"Thuế và phí không chỉ là nghĩa vụ, mà phải là đòn bẩy để khuyến khích đổi mới, bảo vệ môi trường và phát triển bền vững. Khi doanh nghiệp có niềm tin vào chính sách, họ sẽ đầu tư dài hạn, công nghệ cao, từ đó tạo ra giá trị thực cho nền kinh tế", ông Nguyễn Văn Phụng nhận định.
Trong bối cảnh Việt Nam đang hướng tới mục tiêu kinh tế xanh và tuần hoàn, việc thiết lập một hệ thống chính sách tài chính minh bạch, công bằng và khả thi cho ngành khoáng sản không chỉ giúp giảm gánh nặng cho doanh nghiệp, mà còn tạo nền tảng cho quản trị tài nguyên hiệu quả, bảo vệ lợi ích quốc gia và nâng cao vị thế Việt Nam trong chuỗi giá trị toàn cầu.
Vĩnh Hoàng
Nguồn: https://baochinhphu.vn/hoan-thien-chinh-sach-tai-chinh-nganh-khoang-san-tranh-chong-lan-khoi-thong-dong-luc-dau-tu-102251015163448395.htm
Bình luận (0)