Vietnam.vn - Nền tảng quảng bá Việt Nam

Hợp tác và hội nhập quốc tế về quốc phòng góp phần đưa đất nước vươn mình trong kỷ nguyên mới

TCCS - Với đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa, là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, Việt Nam kiên định chủ trương “bốn không”, góp phần bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa”. Điều này thể hiện nét độc đáo của hợp tác và hội nhập quốc tế về quốc phòng của Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh, góp phần khẳng định vị thế, uy tín của nước ta trên trường quốc tế.

Tạp chí Cộng SảnTạp chí Cộng Sản18/05/2025


Ngày 23-9-2024, trong bài phát biểu tại Đại học Cô-lôm-bi-a (Hoa Kỳ) nhân dịp tham dự Tuần lễ cấp cao Đại hội đồng Liên hợp quốc khóa 79, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm đã nhấn mạnh: “... kế thừa truyền thống hòa bình, hòa hiếu, “lấy chí nhân thay cường bạo” của dân tộc, Việt Nam sẽ kiên trì “bốn không”, ủng hộ mạnh mẽ việc giải quyết các tranh chấp, bất đồng bằng các biện pháp hòa bình trên cơ sở Hiến chương Liên hợp quốc, luật pháp quốc tế, phản đối các hành động đơn phương, chính trị cường quyền, sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế”(1). Đây là sự vận dụng sáng tạo những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, là sự kế thừa, phát huy truyền thống, bản sắc đối ngoại, ngoại giao dân tộc, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa thế giới và tư tưởng tiến bộ của thời đại. Theo đó: “Việt Nam chủ trương không tham gia liên minh quân sự; không liên kết với nước này để chống nước kia; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ Việt Nam để chống lại nước khác; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế” (chủ trương “bốn không”)(2).

Những năm tới, dự báo tình hình thế giới, khu vực tiếp tục có những diễn biến phức tạp, tiềm ẩn nhiều nhân tố gây bất ổn, như cuộc xung đột Nga - U-crai-na chưa có hồi kết, Dải Gaza và Bờ Tây tiếp tục chứng kiến các cuộc giao tranh nghiêm trọng, Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên liên tục thực hiện các vụ thử tên lửa, làm gia tăng quan ngại về bất ổn an ninh khu vực... Trong một thế giới đầy biến động, cạnh tranh chiến lược khiến các quốc gia buộc phải đứng trước lựa chọn. Song, Việt Nam không “chọn bên” mà chọn chính nghĩa, sự công bằng, công lý, lẽ phải trên cơ sở các nguyên tắc của luật pháp quốc tế, Hiến chương Liên hợp quốc; bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi. Vì vậy, để bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới, đòi hỏi cần nhất quán thực hiện chủ trương quốc phòng “bốn không”, có phương sách giữ nước, phương sách đối ngoại nói chung, hợp tác và hội nhập quốc tế về quốc phòng nói riêng thực sự linh hoạt, phù hợp; kiên định mục tiêu, nguyên tắc chiến lược, vận dụng sách lược mềm dẻo, đậm nét độc đáo của chính sách hợp tác và hội nhập quốc tế về quốc phòng Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh.

Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính và các đại biểu tham quan trưng bày tại Triển lãm Quốc phòng quốc tế Việt Nam 2024_Ảnh: TTXVN

Chủ trương “bốn không” thể hiện nỗ lực đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại, tính chất hòa bình và tự vệ, góp phần bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa”

Thứ nhất, chủ trương “bốn không” là sự vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập, tự chủ trong đối ngoại, đoàn kết quốc tế.

Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản (năm 1848), C. Mác và Ph. Ăng-ghen kêu gọi: “Vô sản tất cả các nước, đoàn kết lại!”(3). Trong thời đại đế quốc chủ nghĩa, V. I. Lê-nin đã bổ sung và đưa ra khẩu hiệu: “Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức, đoàn kết lại!”(4). Ngay từ khi tiếp cận chủ nghĩa Mác - Lê-nin, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm nhận thức và vận dụng sáng tạo vào thực tiễn cách mạng Việt Nam nhằm khơi dậy, phát huy truyền thống độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường của dân tộc để đi đến những thắng lợi vĩ đại trong các cuộc kháng chiến chống quân xâm lược, giành độc lập, tự do cho dân tộc, giải phóng đất nước. Với nhãn quan chiến lược sáng suốt, “Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thể hiện rất cụ thể và sâu sắc mối quan hệ biện chứng, sự gắn kết giữa độc lập, tự chủ với mở rộng và tăng cường đoàn kết, hợp tác quốc tế; giữa tự lực, tự cường với hợp tác và phát triển”(5). Người không tuyệt đối hóa một nhân tố nào, mà đề cập rất rõ ràng, sinh động về vị trí, vai trò của từng nhân tố, của sự kết hợp sức mạnh bên trong với sức mạnh bên ngoài để tăng cường sức mạnh tổng hợp quốc gia. Trong mối quan hệ biện chứng đó, “độc lập, tự chủ” luôn giữ vai trò quyết định, là nền tảng vững chắc để đoàn kết quốc tế, tranh thủ sự ủng hộ rộng rãi của nhân dân thế giới; đồng thời, đoàn kết, hợp tác quốc tế có ý nghĩa rất quan trọng, tạo môi trường quốc tế thuận lợi, sức mạnh tổng hợp để giữ vững độc lập, tự chủ. Người chỉ rõ: “Phải trông ở thực lực. Thực lực mạnh, ngoại giao sẽ thắng lợi. Thực lực là cái chiêng mà ngoại giao là cái tiếng. Chiêng có to tiếng mới lớn”(6).

Thấm nhuần sâu sắc chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại, hợp tác quốc tế, Đảng, Nhà nước ta khẳng định quan điểm: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại. Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi... Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”(7). Theo đó, cùng với chủ trương “bốn không”, Việt Nam kiên định chính sách hợp tác và hội nhập quốc tế về quốc phòng: “Tăng cường hợp tác quốc phòng với các nước để nâng cao khả năng bảo vệ đất nước và giải quyết các thách thức an ninh chung. Tùy theo diễn biến của tình hình và trong những điều kiện cụ thể, Việt Nam sẽ cân nhắc phát triển các mối quan hệ quốc phòng, quân sự cần thiết với mức độ thích hợp trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nhau cũng như các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, hợp tác cùng có lợi, vì lợi ích chung của khu vực và cộng đồng quốc tế”(8). Rõ ràng, Việt Nam chủ trương phát triển quan hệ hợp tác quốc phòng với tất cả các nước, nhất là nước láng giềng, đối tác chiến lược, đối tác toàn diện, xây dựng lòng tin, tạo sự ủng hộ, giúp đỡ quốc tế để ngăn ngừa nguy cơ và đối phó với chiến tranh xâm lược; sẵn sàng mở rộng quan hệ hợp tác quốc phòng trên cơ sở không phân biệt sự khác nhau về chế độ chính trị và trình độ phát triển. Việt Nam không chấp nhận quan hệ hợp tác quốc phòng dưới bất kỳ điều kiện áp đặt hoặc sức ép nào. Việt Nam tăng cường hợp tác quốc phòng đa phương nhằm góp phần bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo vệ chủ quyền quốc gia.

Thứ hai, chủ trương “bốn không” thể hiện sâu sắc tư duy nhất quán của Đảng về chính sách quốc phòng - tính chất hòa bình và tự vệ, kiên quyết, kiên trì giải quyết mọi tranh chấp, bất đồng bằng biện pháp hòa bình.

Trong lịch sử, Việt Nam là đất nước luôn phải đối mặt với nguy cơ bị xâm lược từ bên ngoài và đã trải qua rất nhiều cuộc chiến tranh để giải phóng dân tộc, giành lại độc lập, tự do, bảo vệ Tổ quốc. Chính vì vậy, khát khao được sống trong hòa bình, độc lập; giải quyết mọi bất đồng, tranh chấp bằng biện pháp hòa bình là mong muốn, thiện chí và quan điểm nhất quán trong chính sách quốc phòng của Việt Nam. Chủ trương “bốn không” thể hiện tầm cao trí tuệ, đúc kết tài thao lược quân sự, quốc phòng - an ninh của Đảng, Nhà nước, phù hợp với thực tiễn đất nước cũng như bối cảnh quốc tế. Đồng thời, chủ trương “bốn không” còn thể hiện tính nhân văn sâu sắc trong quan điểm, định hướng của Đảng, Nhà nước ta; khẳng định sự nhất quán và tầm nhìn chiến lược nhằm triệt tiêu hoàn toàn mầm mống chiến tranh, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn để phát triển đất nước. Đây là yếu tố hết sức quan trọng để bảo đảm hòa bình thực sự không chỉ đối với Việt Nam, mà còn đối với các quốc gia khác trên thế giới. Trên thực tế thời gian qua, chính sách quốc phòng mang tính chất chính nghĩa, hòa bình và tự vệ đã được Đảng, Nhà nước Việt Nam nhất quán khẳng định. “Hòa bình” trong chính sách quốc phòng của Việt Nam là sự bình an, ổn định và phát triển, không để xảy ra xung đột giữa các quốc gia, không có chiến tranh, khủng bố, cướp bóc; con người được sống một cuộc sống yên bình và hạnh phúc. “Hòa bình” không chỉ là thông điệp, mà còn là cam kết của Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam gửi đến các quốc gia trên thế giới, với phương châm “giải quyết các tranh chấp bằng các biện pháp hòa bình phù hợp với luật pháp quốc tế. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, vùng trời, vùng biển; giữ gìn môi trường hòa bình, ổn định để phát triển”(9). Đây là khát vọng, là giá trị thiêng liêng, là mục tiêu của cả dân tộc Việt Nam như cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định: “Bảo vệ Tổ quốc là bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ nhân dân, xây dựng môi trường thuận lợi để phát triển, nhưng phải gắn với bảo vệ hòa bình, và hòa bình được coi là một giá trị thiêng liêng của đất nước”(10). Do đó, Việt Nam luôn mong muốn thế giới, khu vực, mọi quốc gia, dân tộc đều được hưởng hòa bình, tự do, ấm no, hạnh phúc.

“Tự vệ” trong chính sách quốc phòng và đường lối quốc phòng - an ninh của Việt Nam là kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động. Đồng thời, Việt Nam cam kết và luôn thể hiện trách nhiệm, nghĩa vụ quốc tế cao cả, đóng góp cho hòa bình, thịnh vượng, hợp tác phát triển chung của khu vực và thế giới bằng hành động cụ thể, thiết thực với phương châm “thêm bạn, bớt thù”. Trước các cuộc xung đột, đối đầu diễn ra trong khu vực và trên thế giới, Việt Nam luôn lên án, phản đối hành động gây hấn, tạo cớ, xung đột, chạy đua vũ trang, với quan điểm không sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực, tránh va chạm không cần thiết, không để đối tượng nước ngoài khiêu khích, kích động, thỏa hiệp xâm phạm lợi ích quốc gia - dân tộc hoặc lôi kéo, khống chế, gây sức ép với nước khác phát động chiến tranh; kiên quyết đấu tranh, kiên trì giải quyết tranh chấp, bất đồng bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế.

Nhờ chính sách hòa bình và tự vệ, một mặt, Việt Nam tiếp tục mở rộng quan hệ quốc tế; mặt khác, kiên định không tham gia liên minh quân sự hay liên kết với quốc gia này chống quốc gia khác. Việt Nam có đủ khả năng để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa, nền văn hóa và lợi ích quốc gia - dân tộc, phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, không để nảy sinh xung đột và xảy ra chiến tranh.

Thứ ba, chủ trương “bốn không” là sự cụ thể hóa phương châm bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa”, sẵn sàng chống chiến tranh xâm lược.

Cần khẳng định, Việt Nam “không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế”, đây không phải là tự “trói tay” mình. Trái lại, chính sách đối ngoại đó còn có tác dụng “cởi trói” cho Việt Nam cả trong tư duy và hành động, để chúng ta có thể suy nghĩ và hành động một cách độc lập, sáng tạo, không bị chi phối, áp đặt bởi yếu tố bên ngoài, cũng có nghĩa là không bị người khác “trói” mình. Tuy nhiên, mặc dù Việt Nam chủ trương không đe dọa hoặc “sử dụng sức mạnh quân sự trước” trong quan hệ quốc tế, nhưng Việt Nam sẵn sàng và kiên quyết đáp trả mọi hành động xâm lược, phá hoại an ninh quốc gia với phương châm “nếu đất nước có chiến tranh, chúng ta buộc lòng phải cầm súng thì cũng là vì hòa bình”(11).

Với phương châm “có kế sách ngăn ngừa nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa” và “nỗ lực phấn đấu để ngăn ngừa xung đột, chiến tranh”(12), Việt Nam tăng cường tiềm lực quốc phòng - an ninh chính là để bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa”, “giữ nước từ khi nước chưa nguy”, không ngoài mục đích giữ gìn hòa bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước, không trái tinh thần chủ trương “bốn không” của Việt Nam, đồng thời góp phần bảo vệ hòa bình ở khu vực và trên thế giới.

Trước những bất đồng, Việt Nam luôn thực hiện hiệu quả phương thức đấu tranh hòa bình, trong đó sử dụng tổng hợp biện pháp, như đấu tranh chính trị, đấu tranh pháp lý, đấu tranh bằng phương tiện truyền thông và dư luận xã hội trong nước cũng như quốc tế, đấu tranh bằng biện pháp hòa bình ngoài thực địa... Cùng với đó, Đảng, Nhà nước Việt Nam luôn chủ động đề ra kế sách bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa”; chủ động nhận diện, ngăn ngừa, triệt tiêu nhân tố bất lợi, tiềm ẩn nguy cơ trở thành xung đột. Các lực lượng vũ trang nhân dân luôn đề cao cảnh giác, không để bị động, bất ngờ; nhanh chóng, kịp thời phát hiện mọi biểu hiện sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực hòng xâm phạm độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Nếu điều đó xảy ra, Việt Nam sẽ sử dụng quyền tự vệ chính đáng của mình bằng tất cả sức mạnh của một dân tộc yêu chuộng hòa bình kết hợp sức mạnh của thời đại để  bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, sự toàn vẹn lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc.

Thứ tư, chủ trương “bốn không” góp phần thực hiện thắng lợi đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại.

Chủ động hợp tác về quốc phòng, an ninh là tạo điều kiện củng cố và phát triển quốc phòng, an ninh, để hiện đại hóa vũ khí, trang bị kỹ thuật cho lực lượng vũ trang. Đến nay, Bộ Quốc phòng Việt Nam đã mở rộng và thiết lập quan hệ hợp tác với trên 100 quốc gia, trong đó có đầy đủ 5 nước Ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc và tất cả nước lớn. Việt Nam mở Văn phòng Tùy viên quốc phòng tại 35 nước và Liên hợp quốc. Bên cạnh đó, hiện nay 42 nước có Văn phòng Tùy viên quốc phòng tại Việt Nam(13). Rõ ràng, chủ trương “không tham gia liên minh quân sự” là đúng đắn và phù hợp với bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay khi hòa bình, hợp tác, phát triển đang là xu thế chủ đạo và chủ trương đối ngoại của Việt Nam là đa dạng hóa, đa phương hóa. Thực hiện chủ trương này là cơ sở để chúng ta tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam.

Hợp tác quốc tế về quốc phòng hoàn toàn khác với liên minh quân sự. Khi tham gia liên minh quân sự, các nước sẽ nằm trong một khối quân sự chung, với mục tiêu cụ thể, thông qua biện pháp quân sự để đối phó với một hoặc nhiều đối thủ chung. Các nước trong liên minh sẽ phải đặt dưới sự chỉ huy, lãnh đạo của một quốc gia, thường là nước lớn và tuân thủ các nguyên tắc của liên minh, cho dù không hoàn toàn phù hợp với mình. Điều này tạo ra hệ quả là sự ràng buộc giữa các quốc gia trong liên minh, khiến họ không còn độc lập, tự chủ về vấn đề của đất nước mình. Việt Nam chủ trương không tham gia liên minh quân sự, nhưng chủ động và tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng và toàn diện cả về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng - an ninh. Đến nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ hợp tác quốc phòng - an ninh với tất cả các nước trong khu vực, trao đổi thông tin, hợp tác tuần tra chung biên giới trên bộ, trên biển (Việt Nam - Cam-pu-chia, Việt Nam - Thái Lan, Việt Nam - Trung Quốc…); hợp tác chống tội phạm xuyên quốc gia, mua bán người và ma túy... Việt Nam đang tham gia sáng kiến nhằm thúc đẩy hợp tác quốc phòng - an ninh nội khối như Hợp tác công nghiệp quốc phòng ASEAN; sử dụng nguồn lực và khả năng quân đội các nước khu vực trong hỗ trợ nhân đạo và cứu trợ thảm họa; xác định biện pháp khả thi cũng như cơ chế tăng cường hợp tác giữa các tổ chức quốc phòng ASEAN. Trong khuôn khổ hợp tác, hằng năm, Việt Nam tham gia đầy đủ các hội nghị, như Hội nghị người đứng đầu Quân đội ASEAN (ACDFIM), Hội nghị Tư lệnh Lục quân ASEAN (ACAMM), Hội nghị Tư lệnh Hải quân ASEAN (ANCM) và Hội nghị Tư lệnh Không quân ASEAN (AACC), Hội nghị không chính thức những người đứng đầu tình báo quốc phòng các nước ASEAN (AMIIM)... Hoạt động hợp tác và hội nhập quốc tế về quốc phòng của Việt Nam đã đóng góp vào giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, bảo vệ các lợi ích quốc gia của Việt Nam trên trường quốc tế và khu vực; góp phần củng cố và duy trì hòa bình, ổn định, tạo môi trường thuận lợi phát triển kinh tế đất nước, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia, bảo vệ các lợi ích quốc gia của Việt Nam trên trường quốc tế và khu vực.

Như vậy có thể khẳng định, chủ trương “bốn không” trong chính sách hợp tác và hội nhập quốc tế về quốc phòng, góp phần bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa” là quan điểm nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong đường lối quốc phòng - an ninh; thể hiện tư duy lý luận đặc sắc, tầm nhìn chiến lược của Đảng, Nhà nước ta đối với vấn đề an ninh khu vực và thế giới, gắn với thực tiễn cùng thách thức mà Việt Nam đang phải đối mặt về quốc phòng - an ninh. Đặc biệt là trong bối cảnh sự tranh giành ảnh hưởng, cạnh tranh chiến lược ngày càng sâu sắc, hoạt động tập hợp lực lượng giữa các nước lớn theo xu hướng phân cực và tối đa hóa quyền lực tiếp tục được đẩy mạnh, nhiều quốc gia đã bị cuốn vào vòng xoáy, nhất là nước vừa và nhỏ chịu tác động của lực “kéo - đẩy” ngày càng mạnh từ cuộc cạnh tranh này.

Các sĩ quan Bệnh viện dã chiến cấp 2 số 6 và Đội Công binh số 3 lên đường thực hiện nhiệm vụ tại Phái bộ Gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc tại Nam Sudan và khu vực Abyei_Ảnh: TTXVN

Vận dụng chủ trương “bốn không” nâng cao chất lượng hợp tác và hội nhập quốc tế về quốc phòng, góp phần bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa” trong tình hình mới

Một là, tiếp tục quán triệt và triển khai thực hiện hiệu quả quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về hợp tác và hội nhập quốc tế về quốc phòng, góp phần bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa”.

Quán triệt và triển khai hiệu quả Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng; Nghị quyết Trung ương 8 khóa XIII về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; Nghị quyết số 22-NQ/TW, ngày 10-4-2013, của Bộ Chính trị, “Về hội nhập quốc tế”; Nghị định số 22/2016/NĐ-CP, ngày 31-3-2016, của Thủ tướng Chính phủ, “Về đối ngoại quốc phòng”; Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ XI; Nghị quyết số 806-NQ/QUTW, ngày 31-12-2013, của Quân ủy Trung ương, “Về hợp tác quốc tế và đối ngoại quốc phòng đến năm 2020 và những năm tiếp theo”... Trên cơ sở đó, cơ quan liên quan cần kịp thời tham mưu với Đảng, Nhà nước về hoạt động hợp tác và hội nhập quốc tế về quốc phòng theo tinh thần “tích cực, chủ động, chắc chắn, linh hoạt, hiệu quả”; kiên định chủ trương “bốn không” nhằm mục đích “hòa bình, tự vệ”, bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa”. Đồng thời, đề xuất nội dung hợp tác trong khắc phục hậu quả bom mìn và xử lý ô nhiễm đi-ô-xin, nghiên cứu đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại, liên danh, liên kết trong sản xuất vũ khí, trang thiết bị quân sự, thúc đẩy các nước viện trợ trang thiết bị quân sự và tăng cường hợp tác công nghiệp quốc phòng với Việt Nam.

Hai là, nhất quán nguyên tắc độc lập, tự chủ trong hợp tác và hội nhập quốc tế về quốc phòng.

Hợp tác và hội nhập quốc tế về quốc phòng luôn đặt trong việc giải quyết tốt mối quan hệ lớn giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế, vừa tận dụng cơ hội, vừa tránh tác động tiêu cực trong quá trình hội nhập quốc tế, góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Trong quan hệ với các nước lớn và các nước khác trên thế giới, Việt Nam luôn giữ thế cân bằng và một tinh thần tự chủ, giữ vững chủ trương “bốn không” để bảo vệ mục đích tối thượng độc lập dân tộc Việt Nam. Nhiệm vụ xuyên suốt trong hoạt động hợp tác và hội nhập quốc tế về quốc phòng của Việt Nam đó là luôn đặt đất nước vào vị trí có lợi nhất để ứng phó với mọi diễn biến, biến động phức tạp của tình hình khu vực và thế giới. Đồng thời, kiên định khẳng định độc lập, tự chủ, giữ vững ổn định, bảo vệ vững chắc chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ; nâng cao vị thế, vai trò của đất nước trên trường quốc tế. Tích cực, chủ động phòng, chống, làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động lợi dụng hợp tác và hội nhập quốc tế về quốc phòng để chống phá cách mạng Việt Nam của các thế lực thù địch, phản động, góp phần bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa” trong tình hình mới.

Ba là, nâng cao hiệu quả hợp tác và hội nhập quốc tế về quốc phòng song phương, đa phương, đưa quan hệ hợp tác với các nước, các tổ chức quốc tế đi vào chiều sâu, thực chất.

Chú trọng quan hệ, hợp tác với các nước láng giềng, các nước lớn, các nước Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), các nước bạn bè truyền thống cũng như các tổ chức và định chế quốc tế trên nguyên tắc bảo đảm lợi ích quốc gia, dân tộc, bình đẳng, cùng có lợi, tuân thủ luật pháp quốc tế. Trong quá trình thực hiện, cần xác định rõ “đối tác, đối tượng” để vừa hợp tác, vừa đấu tranh, gia tăng hợp tác, tránh xung đột, đối đầu, tránh bị cô lập, lệ thuộc hoặc rơi vào thế phải “chọn bên”; tăng cường biện pháp xây dựng lòng tin chiến lược, hiểu biết lẫn nhau, “thêm bạn, bớt thù”; kiên trì giải quyết bất đồng và xung đột bằng biện pháp hòa bình, trên tinh thần tôn trọng các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế. Đa dạng hóa hình thức, nội dung hợp tác và hội nhập quốc tế về quốc phòng; triển khai hiệu quả các nội dung hợp tác đã ký kết, tập trung thúc đẩy cơ chế tham vấn, đối thoại, hợp tác phù hợp với thế mạnh của từng đối tác và nhu cầu của Việt Nam. Mở rộng lĩnh vực, quy mô và địa bàn tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc; đảm nhiệm tốt vai trò chủ trì hoạt động trong ASEAN...

Bốn là, tăng cường công tác nghiên cứu, dự báo, tham mưu chiến lược của hợp tác và hội nhập quốc tế về quốc phòng trong tình hình mới. 

Trước diễn biến nhanh chóng, phức tạp của tình hình an ninh, chính trị thế giới, khu vực, cơ quan chức năng cần phối hợp chặt chẽ với Bộ Quốc phòng tập trung nghiên cứu, đánh giá, nhận diện rõ mục đích, bản chất việc điều chỉnh chiến lược, hoạt động đối ngoại của các nước lớn, các nước trong khu vực; phân tích toàn diện, sâu sắc, nhiều chiều, làm rõ thuận lợi, khó khăn, tác động đến hợp tác và hội nhập quốc tế về quốc phòng, nhất là cạnh tranh chiến lược, tập hợp lực lượng của các nước lớn, tình hình Biển Đông, tuyến biên giới và vùng biển Tây Nam, thách thức an ninh phi truyền thống... Trong đó, hết sức coi trọng công tác dự báo nguy cơ tiềm ẩn, yếu tố gây bất ổn, thái độ, hành vi bất thường trong quan hệ, ứng xử của các nước đe dọa trực tiếp đến hòa bình, ổn định của đất nước, khu vực. Quân đội tiếp tục nâng tầm hợp tác và hội nhập quốc tế về quốc phòng đa phương theo tinh thần Chỉ thị số 25-CT/TW, ngày 8-8-2018, của Ban Bí thư, “Về việc đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương đến năm 2030”; Nghị quyết số 130/2020/QH14, ngày 13-11-2020, của Quốc hội, “Về tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc”; nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác hợp tác và hội nhập quốc tế về quốc phòng theo hướng ngày càng đi vào chiều sâu, thực chất và hiệu quả. Tích cực, chủ động, nắm chắc diễn biến tình hình của thế giới, khu vực để tham mưu chiến lược với Đảng, Nhà nước, góp phần xử lý hiệu quả tình huống cũng như triển khai hoạt động hợp tác và hội nhập quốc tế về quốc phòng, bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc. Đồng thời, tạo lập thế trận giữa quốc phòng, an ninh với đối ngoại vững chắc đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý thống nhất của Nhà nước, trực tiếp là Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng đối với công tác hợp tác và hội nhập quốc tế về quốc phòng trong tình hình mới.

Chủ trương “bốn không” trong hợp tác và hội nhập quốc tế về quốc phòng Việt Nam dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa tinh hoa nghệ thuật quân sự và ngoại giao Việt Nam, thể hiện tầm nhìn chiến lược, tư duy lý luận đặc sắc của Đảng, Nhà nước ta. Đây là “kim chỉ nam” định hướng cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa nói chung và hợp tác và hội nhập quốc tế về quốc phòng nói riêng trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc./.

------------------

(1) Tô Lâm: Về con đường đi tới của Việt Nam, quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ và tầm nhìn cho kỷ nguyên mới, Tạp chí Cộng sản điện tử, ngày 23-9-2024, https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/tin-tieu-diem/-/asset_publisher/s5L7xhQiJeKe/content/con-duong-cua-viet-nam-quan-he-voi-hoa-ky-va-tam-nhin-cho-ky-nguyen-moi
(2) Bộ Quốc phòng: Quốc phòng Việt Nam 2019, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2019, tr. 25
(3) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 4, tr. 646
(4) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t. 42, tr. 86
(5) Xem: Trần Vi Dân: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập, tự chủ trong đối ngoại, đoàn kết quốc tế và việc vận dụng trong tình hình hiện nay”, Tạp chí Cộng sản điện tử, ngày 6-7-2021, https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/quoc-phong-an-ninh-oi-ngoai1/-/2018/823631/tu-tuong-ho-chi-minh-ve-doc-lap%2C-tu-chu-trong-doi-ngoai%2C-doan-ket-quoc-te-va-viec-van-dung-trong-tinh-hinh-hien-nay.aspx
(6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 4, tr. 147
(7) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 161 - 162
(8) Bộ Quốc phòng: Quốc phòng Việt Nam 2019, Sđd, tr. 25
(9) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 157
(10) Nguyễn Phú Trọng, Một số vấn đề về đường lối quân sự, chiến lược quốc phòng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa thời kỳ mới, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2023, tr. 419
(11) Xem: Phan Trọng Hào: “Chính sách quốc phòng “Bốn không” của Đảng, Nhà nước ta, Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương, ngày 11-12-2021, https://hdll.vn/vi/nghien-cuu---trao-doi/chinh-sach-quoc-phong-bon-khong-cua-dang-nha-nuoc-ta.html
(12) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 156 – 157
(13) Đỗ Quyên: “Lễ kỷ niệm 80 năm ngày thành lập Quân đội Nhân dân Việt Nam tại Indonesia”, TTXVN/Vietnamplus, ngày 5-12-2024, https://www.vietnamplus.vn/le-ky-niem-80-nam-ngay-thanh-lap-quan-doi-nhan-dan-viet-nam-tai-indonesia-post999299.vnp

Nguồn: https://tapchicongsan.org.vn/web/guest/quoc-phong-an-ninh-oi-ngoai1/-/2018/1085502/hop-tac-va-hoi-nhap-quoc-te-ve-quoc-phong-gop-phan-dua-dat-nuoc-vuon-minh-trong-ky-nguyen-moi.aspx


Bình luận (0)

No data
No data

Cùng chuyên mục

Thế giới hoang dã trên đảo Cát Bà
Cảnh bình minh đỏ rực như lửa tại Ngũ Chỉ Sơn
10.000 món đồ cổ đưa bạn trở về Sài Gòn xưa
Nơi Bác Hồ đọc Tuyên ngôn Độc lập

Cùng tác giả

Di sản

Nhân vật

Doanh nghiệp

No videos available

Thời sự

Hệ thống Chính trị

Địa phương

Sản phẩm