Người dân nơi đây kể rằng, phía dưới những thửa ruộng ở Mường Chanh chứa một loại đất quý vừa mềm, vừa dẻo ít nơi nào có, đó là đất sét cao lanh. Người dân bản địa lấy thứ đất này để làm gốm. Trong cuộc sống sinh hoạt, bà con dùng loại đất này làm ra những chiếc chum, vại kích thức to cỡ vài người ôm làm dụng cụ cất đồ dùng, bảo quản lương thực thực phẩm... Từ đó, dần dần sinh ra nghề làm gốm ở Mường Chanh.
Ông Hoàng Văn Nam, bản Noong Ten, người có thâm niên trong nghề làm gốm Mường Chanh. Đã ở tuổi 80, nhưng động tác nhào đất, tạo khuôn, dựng thành sản phẩm gốm của ông vẫn nhanh nhẹn. Vừa làm, ông Nam vừa kể về “thời vàng son” của nghề gốm Mường Chanh với giọng chậm rãi, chân chất: Từ xưa, gốm Mường Chanh có tiếng trong vùng Tây Bắc. Đồ gốm như chum, vại, hũ được dùng chứa hạt giống, đựng muối, mắm cá, rượu... Những nơi hiếm nguồn nước, những chiếc chum, lu gốm dùng đựng nước rất quý. Và khi dựng vợ, gả chồng cho con cái, gia tài cha mẹ để lại cho con thường có hai vật quý đó là cái ninh đồng và chum đựng nước.
Chum gốm, vò gốm, từ lâu được coi trọng tính giá trị bằng ngang những đồng bạc trắng hoa xoè. Mới đầu, nhân dân Mường Chanh làm gốm để phục vụ sinh hoạt trong gia đình. Sau rồi, tiếng lành đồn xa, nhân dân ở các địa phương khác biết đến, đã mang tiền, vải lụa, gà, lợn đến trao đổi. Lâu dần, gốm đã trở thành hàng hóa.
“Nghề làm gốm của người Thái ở Mường Chanh không biết có từ lúc nào, nhưng từ ngày mới lớn, tôi đã theo bố làm gốm rồi cùng mẹ mang gốm ra chợ bán hoặc đổi lấy lương thực. Đến những năm 1970, tôi cùng vợ bắt đầu tự làm gốm để kiếm tiền nuôi con ăn học, trang trải cuộc sống. Cứ xong công việc đồng áng, vợ chồng lại tranh thủ làm gốm. Thuở ấy, hàng chục hộ theo nghề, lò nung trong bản đỏ lửa quanh năm” - ông Nam kể lại.
Các thành viên trong gia đình ông Nam đều tham gia làm gốm; phụ nữ gia công nguyên liệu, quay bàn xoay, xếp đặt sản phẩm; đàn ông tạo hình, xếp gốm vào lò, nung gốm. Vì làm thủ công, nên có một sản phẩm gốm rất công phu và qua nhiều công đoạn. Sau mỗi vụ gặt lúa, ông cùng con cháu ra ruộng tìm đất. Loại đất sét cao lanh phải đào sâu khoảng 1 mét mới có. Khi lấy đất về, ông ủ vào hố nhỏ ở dưới gầm sàn, trên phủ tấm ly non giữ ẩm để dùng dần. Đất sét khai thác về được ông gia công, làm nhuyễn sau đó mới tạo hình trên bàn xoay và một số dụng cụ chuyên dùng để cắt, làm nhẵn, uốn cong, miết mịn… Đồ gốm được tạo hình từ đáy, đến thân, miệng. Sau cùng, là trang trí các loại hoa văn như khắc vạch, sóng nước hay hoa văn chỉ nổi tùy theo từng loại sản phẩm khác nhau.
Gốm sau khi tạo hình xong, được để hong khô ở dưới gầm sàn cẩn thận rồi đưa vào lò nung. Tạo sắc màu cho gốm, người thợ lấy lá cây dẻ cho vào lò rồi lấp cửa lò. Trong quá trình ủ, lá dẻ cháy tạo thành khói đen ám vào sản phẩm và sinh ra màu xám đen đặc trưng của gốm Mường Chanh.
Thời gian nung gốm, mất một ngày đêm, sau đó ủ tiếp trong lò khoảng 1 tuần, tạo độ bền chắc cho đến khi nguội hẳn mới cho ra lò. Đam mê với nghề, suốt gần 50 năm làm gốm, ông Nam đã tạo ra hàng nghìn sản phẩm gốm đa dạng.
Chia tay gia đình ông Nam, chúng tôi tìm đến bản Đen gặp gia đình ông Hoàng Văn Mẳn, là một trong 3 hộ còn duy trì nghề làm gốm ở xã Mường Chanh. Trong cái bắt tay nồng hậu chào đón khách của ông Mẳn, tôi cảm nhận được sự thô sần, chai ráp của đôi tay người thợ gốm.
Sinh ra trong một gia đình có truyền thống làm gốm, ngay từ khi còn nhỏ, ông Mẳn theo cha mình học cách lựa đất, kỹ thuật nặn, tạo hình gốm. Tham quan khu trưng bày đồ gốm, chúng tôi ấn tượng bởi không gian sắp đặt gốm ngay ngắn nhưng đậm nét truyền thống.
Nhiệt tình nhấc từng chiếc bình, vại đủ kích cỡ, ông Mẳn giới thiệu: Cái hay của gốm Mường Chanh là được sản xuất hoàn toàn thủ công, không tráng men, tạo màu. Gốm ở đây luôn khác so với gốm vùng khác, có sức hút bởi sự mộc mạc, chất men gốm đen, xám ánh đặc trưng; tuy không nhiều hoa văn trang trí, thô sơ, mộc mạc nhưng bền và nhẹ, vì thế được nhiều người tìm mua, sưu tầm. Trước đây, sản phẩm gốm Mường Chanh phổ biến nhất là các loại dụng cụ phục vụ đời sống, nên không đòi hỏi cao về trình độ tạo tác. Nhưng về sau, cuộc sống khấm khá hơn, tôi sản xuất thêm nhiều đồ vật dùng để trang trí, làm quà lưu niệm như bình cắm hoa, các loại tượng gốm, hũ đựng trầm… cải tiến hình thức, mẫu mã theo yêu cầu khách hàng. Mỗi khi cho ra một mẻ gốm chất lượng, giúp mình thêm nhiều kinh nghiệm, từ đó thêm trân trọng, yêu quý nghề gốm truyền thống.
Trải qua bao thăng trầm cùng nghề gốm, mong muốn lớn nhất của những người làm gốm như ông Nam, ông Mẳn là tạo ra những sản phẩm gốm không chỉ phục vụ cuộc sống đời thường, còn tôn vinh giá trị văn hóa độc đáo của dân tộc; gìn giữ và truyền dạy nghề cho thế hệ sau để nghề gốm truyền thống không bị mai một.
Hiện nay, xã Mường Chanh thực hiện nhiều giải pháp lưu giữ nghề truyền thống, như: Tổ chức mô hình thí điểm trải nghiệm nghề làm gốm tại địa phương; vận động nhân dân tiếp tục sản xuất kết hợp hài hòa yếu tố truyền thống và xu hướng hiện đại, nhằm tạo ra sản phẩm gốm đáp ứng thị hiếu người tiêu dùng; đưa sản phẩm gốm giới thiệu, trưng bày tại các sự kiện trong và ngoài tỉnh; kết nối nhiều doanh nghiệp, đơn vị đến tìm hiểu, liên kết thị trường tiêu thụ sản phẩm... để sản phẩm gốm Mường Chanh tiếp tục phát triển.
Nguồn: https://baosonla.vn/van-hoa-xa-hoi/luu-giu-nghe-lam-gom-muong-chanh-pBMegKCHg.html
Bình luận (0)