Vietnam.vn - Nền tảng quảng bá Việt Nam

Mã số vùng trồng nâng cao giá trị nông sản

Theo Cục Trồng trọt và BVTV, hiện nay, công tác cấp và quản lý mã số vùng trồng (MSVT), cơ sở đóng gói (CSĐG) phục vụ xuất khẩu đã có những kết quả nhất định. Đây chính là “vé thông hành”, thể hiện khát vọng, quan tâm của chính quyền địa phương, người sản xuất và doanh nghiệp để đưa các mặt hàng nông sản bay xa, khẳng định vị thế trên thị trường.

Báo Vĩnh LongBáo Vĩnh Long31/10/2025

Theo Cục Trồng trọt và BVTV, hiện nay, công tác cấp và quản lý mã số vùng trồng (MSVT), cơ sở đóng gói (CSĐG) phục vụ xuất khẩu đã có những kết quả nhất định. Đây chính là “vé thông hành”, thể hiện khát vọng, quan tâm của chính quyền địa phương, người sản xuất và doanh nghiệp để đưa các mặt hàng nông sản bay xa, khẳng định vị thế trên thị trường.

Thực hiện thiết lập mã số vùng trồng đáp ứng được yêu cầu khắt khe của thị trường tiêu thụ nội địa và các nước nhập khẩu.
Thực hiện thiết lập mã số vùng trồng đáp ứng được yêu cầu khắt khe của thị trường tiêu thụ nội địa và các nước nhập khẩu.

Nâng cao chất lượng nông sản

Theo Cục Trồng trọt và BVTV, thời gian qua, việc thiết lập và quản lý MSVT, CSĐG được nhiều địa phương, doanh nghiệp, HTX, người dân quan tâm. MSVT được xem là “vé thông hành” đảm bảo chất lượng sản phẩm trồng trọt, truy xuất nguồn gốc nông sản. Qua đó, đã góp phần làm thay đổi tập quán canh tác của nông dân, chuyển đổi tư duy, nâng cao nhận thức sản xuất theo hướng chuyên nghiệp, minh bạch, bền vững và trách nhiệm hơn. MSVT đáp ứng được yêu cầu khắt khe của thị trường tiêu thụ nội địa và các nước nhập khẩu, đem lại hiệu quả kinh tế cao hơn so với canh tác truyền thống.

Để nâng cao hiệu quả công tác cấp và quản lý MSVT, CSĐG nhằm tạo ra các sản phẩm đảm bảo đáp ứng đầy đủ các yêu cầu của các nước nhập khẩu. Ngành chức năng khuyến cáo, cần nâng cao nhận thức cho các tổ chức, cá nhân về thực hiện MSVT, CSĐG, chú trọng đến các yêu cầu về chất lượng sản phẩm.

Các địa phương cần ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý và cung cấp thông tin về MSVT, CSĐG để phục vụ công tác kiểm tra, giám sát và truy xuất thuận tiện. Hoàn thiện hành lang pháp lý và tăng cường hợp tác quốc tế: thường xuyên rà soát và cập nhật các quy định về an toàn thực phẩm, kiểm dịch thực vật để đảm bảo phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế nhằm đáp ứng được yêu cầu của các thị trường nhập khẩu, cải thiện được chất lượng sản phẩm nội địa.

Đồng thời, đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát các vùng trồng, CSĐG xuất khẩu; xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm bằng cách tạm ngưng hoặc thu hồi MSVT, CSĐG xuất khẩu tùy thuộc vào mức độ và tần suất vi phạm giúp nâng cao ý thức tuân thủ của người sản xuất, doanh nghiệp xuất khẩu nhằm tạo ra sự công bằng trong hoạt động xuất khẩu.

Các doanh nghiệp xuất khẩu cần chủ động tìm hiểu và tuân thủ các quy định kỹ thuật về mã số của nước nhập khẩu; duy trì và cải tiến điều kiện sản xuất tại vùng trồng, CSĐG sau khi được cấp mã số xuất khẩu; đa dạng hóa thị trường xuất khẩu…

Một số khó khăn cần khắc phục

Tuy công tác cấp và quản lý MSVT, CSĐG phục vụ xuất khẩu đã có những kết quả nhất định, nhưng vẫn còn nhiều tồn tại đòi hỏi cần triển khai đồng bộ các giải pháp. Theo Cục Trồng trọt và BVTV, hầu hết các địa phương hiện chỉ quan tâm đến hướng dẫn thiết lập và cấp mới mà chưa tập trung nguồn lực cho giám sát các MSVT, CSĐG sau khi được phê duyệt.

Đây là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến nhiều lô hàng vi phạm, phải nhận cảnh báo từ cơ quan kiểm dịch thực vật của các nước nhập khẩu hoặc buộc phải quay đầu xe ngay tại các cửa khẩu của Việt Nam do phát hiện có đối tượng kiểm dịch thực vật.

Bên cạnh, nhận thức của cán bộ địa phương và người sản xuất còn hạn chế; chưa có chế tài xử lý vi phạm; chưa đầu tư đúng mức về công nghệ thông tin. Các địa phương còn lúng túng trong quản lý và xử lý các MSVT, CSĐG, không tuân thủ quy định của nước nhập khẩu. Nhiều địa phương thiếu nhân lực và tài chính cho việc thực hiện nhiệm vụ này và nhiệm vụ giám sát sau khi cấp mã số; việc giám sát sau cấp mã số được thực hiện rất hình thức.

Đó là chưa kể, truy xuất nguồn gốc còn gặp nhiều khó khăn do nhiều địa phương, vùng trồng và CSĐG sầu riêng tiếp nhận thông báo vi phạm theo hướng tiêu cực quá mức, dẫn đến trốn tránh và đùn đẩy trách nhiệm; không nhận đã xuất khẩu lô hàng có liên quan, từ đó không thể tiếp tục xác định nguyên nhân; ghi chép không đầy đủ thông tin nhất là việc mua bán và thu hoạch sản phẩm.

Công tác giám sát vùng trồng, CSĐG sau khi được cấp mã số vẫn còn nhiều hạn chế như: các vùng trồng, CSĐG nhiều chủng loại cây trồng, thời gian thu hoạch khác nhau; liên kết tiêu thụ giữa doanh nghiệp và HTX, tổ hợp tác, vùng trồng chưa được chặt chẽ; việc quản lý MSVT, sử dụng MSVT chưa có cơ chế, quy định rõ ràng, thiếu chặt chẽ dẫn đến ảnh hưởng uy tín của vùng sản xuất, ảnh hưởng đến việc duy trì MSVT.

Tính đến tháng 8/2025, cả nước có 9.207 MSVT xuất khẩu cho 15 loại trái cây tươi và các sản phẩm rau (thanh long, nhãn, vải, xoài, chôm chôm, vú sữa, chanh, bưởi, măng cụt, húng quế,...) sang 11 thị trường (Trung Quốc, Hoa Kỳ, Úc, Hàn Quốc, Nhật Bản, EU…).

Cả nước hiện có 1.735 CSĐG được cấp mã số cho các loại trái cây tươi. Tỉnh có 57 mã số CSĐG xuất khẩu; 805 MSVT (xuất khẩu, nội địa) đã được cấp mã số với diện tích trên 24.700ha. Trong đó, có 599 MSVT xuất khẩu, 206 MSVT nội địa.

Từ góc nhìn sản xuất, ông Lê Thanh Hoàng- Giám đốc HTX Nông nghiệp Thanh Ngọc (xã Thành Thuận) cho biết: Một trong những khó khăn trong thực hiện MSVT là liên kết chuỗi sản xuất- chế biến- tiêu thụ còn lỏng lẻo, tổ chức giữa các khâu cầm chừng, chủ yếu quy mô trung bình và nhỏ.

Nhiều nông dân chưa hiểu rõ ý nghĩa và lợi ích của MSVT trong việc truy xuất nguồn gốc và xuất khẩu nông sản. Nông dân cũng chưa có thói quen ghi chép nhật ký canh tác. Đồng thời, chi phí cho việc cấp MSVT tương đối lớn, khiến nông dân ngán ngại.

Tăng cường giám sát việc sử dụng mã số vùng trồng

Theo Sở Nông nghiệp và Môi trường, thời gian qua, lãnh đạo tỉnh, các đơn vị liên quan đã quan tâm xây dựng vùng trồng, định hướng sản xuất nông sản đáp ứng các yêu cầu xuất khẩu quy định; tạo điều kiện đảm bảo về chất lượng sản phẩm, kiểm soát chặt chẽ dư lượng thuốc BVTV.

Ông Lâm Văn Tân- Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường cho biết: Thời gian tới, sở sẽ tiếp tục hỗ trợ xây dựng các nhãn hiệu, thương hiệu nông sản và chương trình xúc tiến thương mại nông sản; đảm bảo truy xuất nguồn gốc, xây dựng MSVT, mã số CSĐG nhằm đáp ứng tốt cho thị trường tiêu thụ nông sản trong và ngoài nước. Tăng cường giám sát việc sử dụng MSVT, đặc biệt việc mua, bán các sản phẩm ngoài MSVT.

Bên cạnh đó, tiếp tục tuyên truyền hiệu quả của các ứng dụng công nghệ cao hiệu quả trong sản xuất nông nghiệp như: sử dụng thiết bị máy bay không người lái, công nghệ tưới nước tiên tiến, tiếp tục tuyên truyền về ý nghĩa của việc chuyển đổi số trong nông nghiệp, nhất là việc tiếp cận và ứng dụng các công nghệ kỹ thuật số từ sản xuất đến chế biến, phân phối, tiêu thụ nông sản,…

Bài, ảnh: TRÀ MY

Nguồn: https://baovinhlong.com.vn/kinh-te/202510/ma-so-vung-trong-nang-cao-gia-tri-nong-san-8b100ef/


Bình luận (0)

No data
No data

Cùng chuyên mục

TPHCM thu hút đầu tư từ doanh nghiệp FDI trong vận hội mới
Lũ lụt lịch sử ở Hội An, nhìn từ máy bay quân sự Bộ Quốc phòng
'Đại hồng thủy' trên sông Thu Bồn vượt lũ lịch sử năm thìn 1964 là 0,14 m
Cao nguyên đá Đồng Văn - 'bảo tàng địa chất sống' hiếm có trên thế giới

Cùng tác giả

Di sản

Nhân vật

Doanh nghiệp

Ngắm nhìn 'Vịnh Hạ Long trên cạn' vừa lọt top điểm đến yêu thích nhất thế giới

Thời sự

Hệ thống Chính trị

Địa phương

Sản phẩm