Tuy nhiên, công tác này vẫn còn một số hạn chế, thiếu sót, bất cập. Việc nắm, dự báo, đề xuất, chỉ đạo, hướng dẫn đối với toàn quân theo chức năng của một số cơ quan có nội dung chưa kịp thời, hiệu quả chưa cao. Chất lượng đánh giá, dự báo, tham mưu có nội dung chưa toàn diện; trình độ, khả năng đội ngũ cán bộ có mặt chưa tương xứng với yêu cầu, nhiệm vụ. Cơ chế phối hợp, cung cấp, chia sẻ thông tin còn bất cập...

Đảng ủy Học viện Quốc phòng tổ chức Hội nghị tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết số 347-NQ/QUTW ngày 23-5-2015 của Quân ủy Trung ương về nâng cao chất lượng nghiên cứu, dự báo và tham mưu chiến lược quốc phòng đến năm 2020 và những năm tiếp theo. 

Cùng với đó, trước diễn biến nhanh, phức tạp, khó lường của thế giới, cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn vẫn diễn ra gay gắt; khủng hoảng an ninh, xung đột xảy ra ở nhiều nơi; chiến tranh ủy nhiệm, xung đột sắc tộc, biên giới, biển đảo, không gian mạng, đặt thế giới trước nhiều thách thức lớn; các mối đe dọa an ninh phi truyền thống đang tác động xấu đến QS, QP. Các cuộc xung đột quân sự trên thế giới đặt ra nhiều vấn đề mới đối với công tác NCDB và TMCL về QS, QP của ta.

Ngoài ra, cả nước đang đẩy mạnh thực hiện cuộc cách mạng tinh gọn tổ chức bộ máy với những đột phá lớn, trong điều kiện các thế lực thù địch đẩy mạnh chiến lược “diễn biến hoà bình”, bạo lạo lật đổ, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ…Vì thế, để nghiên cứu sâu, nhận diện đúng, đề ra kế sách phù hợp nhằm xây dựng và phát triển đất nước, cần thực hiện tốt các nhiệm vụ, giải pháp sau:

Tại Đại hội XIII, Đảng ta xác định rõ: Thường xuyên cảnh giác, nắm chắc, đánh giá, dự báo sát, đúng tình hình, nhất là những vấn đề phức tạp nảy sinh; chủ động tham mưu đề xuất với Đảng, Nhà nước có đối sách phù hợp, xử lý kịp thời, hiệu quả các tình huống. Vì thế, công tác NCDB và TMCL cần chỉ rõ yêu cầu, nội dung, phương thức tiến hành; cụ thể hóa quan điểm, mục tiêu các chiến lược QS, QP thành chương trình, kế hoạch, nhiệm vụ của các cấp, các ngành, các cơ quan, đơn vị, địa phương. Quá trình thực hiện cần bám sát nguyên tắc: Chủ động, sáng tạo, kiên quyết, linh hoạt, thiết thực, hiệu quả, từ sớm, từ xa; dự báo sát, tham mưu đúng, trúng ý định chiến lược của Đảng, Nhà nước. Cốt lõi nhất trong NCDB và TMCL là chỉ đúng đối tác, đối tượng; đề xuất chủ trương, kế sách đúng để phát triển đất nước, củng cố quốc phòng, an ninh (QP-AN), trọng tâm đề ra và thực hiện được đối sách ngăn ngừa, ngăn chặn, đẩy lùi nguy cơ từ sớm, từ xa mà không phải tiến hành chiến tranh.

Nghiên cứu, tham mưu cần hướng vào việc hoạch định đường lối, chiến lược, chính sách, pháp luật, kết hợp phát triển kinh tế-xã hội với củng cố QP-AN; hướng dẫn toàn dân, toàn quân thực hiện tốt nhiệm vụ BVTQ ngay từ thời bình. Tổ chức nghiên cứu, tham mưu hoạch định các chiến lược bảo vệ không phận quốc gia, biển, đảo, các không gian chiến lược của Tổ quốc; chiến lược ngành, chuyên ngành về QS, QP phù hợp. Nâng cao trình độ, hiệu quả quản lý nhà nước về QS, QP đáp ứng yêu cầu xây dựng Chính phủ số.

Thiếu tướng Lê Xuân Thuân, Tư lệnh Quân đoàn 12 trao khen thưởng tặng các tập thể có thành tích xuất sắc trong thực hiện Nghị quyết số 347-NQ/QUTW giai đoạn 2015-2025. 

Tham mưu lãnh đạo, chỉ huy, điều hành thực hiện các nghị quyết, chỉ thị; lấy sẵn sàng chiến đấu, xử lý hiệu quả các tình huống QP-AN trên các môi trường tác chiến là ưu tiên hàng đầu; nâng cao chất lượng huấn luyện, đào tạo, xây dựng chính quy, rèn luyện kỷ luật là nhiệm vụ trung tâm, xuyên suốt; lấy chủ động nâng cao hiệu quả đối ngoại quốc phòng là mũi nhọn, tiên phong góp phần tạo vành đai an ninh BVTQ từ sớm, từ xa, từ bên ngoài lãnh thổ.

Tham mưu đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu quốc tế, đối thoại quốc phòng, nắm tình hình, giúp công tác NCDB sát, đúng, từ đó chỉ ra những nguy cơ, đề xuất các phương án, kế hoạch, sẵn sàng ứng phó mọi tình huống QP, AN cả trước mắt và lâu dài. Chủ động dự báo tác động của khoa học công nghệ, nhất là cách mạng công nghiệp 4.0, chuyển đổi số quốc gia và các thách thức an ninh phi truyền thống để có chủ trương, đối sách thực hiện thắng lợi Chiến lược BVTQ.

Làm cho mọi người thấy rõ vị trí, ý nghĩa, các định hướng lớn của công tác NCDB và TMCL về QS, QP; nắm chắc đặc điểm, yêu cầu, những cơ hội, thách thức của nhiệm vụ BVTQ từ sớm, từ xa; quan điểm, mục tiêu, phương châm, nhiệm vụ, giải pháp của Chiến lược BVTQ trong tình hình mới. Đặc biệt cần nắm chắc Nghị quyết, kết luận của QUTƯ, làm cho đội ngũ cán bộ nhận thức đúng những thuận lợi, khó khăn, nội dung cốt lõi của việc nâng cao chất lượng NCDB và TMCL về QS, QP, từ đó giúp mọi người có động cơ đúng, trách nhiệm cao trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao.

Củng cố, kiện toàn cơ quan NCDB và TMCL về QS, QP cấp quốc gia và chuyên ngành có cơ cấu hợp lý, chất lượng ngày càng cao, theo hướng “tinh, gọn, mạnh, hợp lý, đồng bộ, chuyên sâu”. Lựa chọn, giao nhiệm vụ cho một cơ quan chủ trì tham mưu giúp QUTƯ, Bộ Quốc phòng chỉ đạo, hướng dẫn nghiệp vụ về công tác NCDB và TMCL trong toàn quân bảo đảm tính tập trung, thống nhất và chuyên sâu.

Xây dựng biên chế, tổ chức các cơ quan NCDB và TMCL phù hợp theo hướng một cơ quan (cục, vụ, viện) có thể đảm nhiệm nhiều chức năng (cục đa chức năng). Một việc có nhiều cơ quan tham gia nhưng chỉ một cơ quan chủ trì để bảo đảm tính chuyên sâu. Rà soát, điều chỉnh, bổ sung chức năng, nhiệm vụ các cơ quan chiến lược để nâng cao hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả công tác dự báo, tham mưu, tránh chồng chéo, bỏ sót. Xây dựng cơ chế, chính sách, điều lệ ngành chặt chẽ, thực hiện tốt công tác quản lý chiến lược về QS, QP.

Đảng ủy Quân chủng Hải quân tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết số 347-NQ/QUTW. 

Thực hiện nghiêm nghị quyết của Đảng về xây dựng đội ngũ cán bộ Quân đội, nhất là cấp chiến dịch, chiến lược, có đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. Nâng cao chất lượng đào tạo cán bộ chiến lược phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ, nhất là về kỹ năng, phương pháp, trình độ tư duy NCDB và trải nghiệm thực tế ở cơ quan chiến lược. Bổ sung, hoàn thiện quy chế tuyển chọn, đánh giá và sử dụng cán bộ theo hướng lấy bản lĩnh, trình độ trí tuệ, sản phẩm nghiên cứu, tham mưu làm thước đo để xem xét, đánh giá. Tăng cường đầu tư hiện đại hóa cơ sở vật chất, trang bị, phương tiện làm việc, coi trọng xây dựng hệ thống thông tin cơ sở dữ liệu đồng bộ, ngày càng hiện đại theo chương trình chuyển đổi số quốc gia.

Làm tốt công tác phối hợp, chia sẻ thông tin giữa các cơ quan trong và ngoài Quân đội. Huy động sự vào cuộc của hệ thống chính trị để điều tra, nắm, phát hiện tình hình tranh chấp, bất đồng trong cộng đồng dân cư, các dân tộc, tôn giáo, các hiện tượng tiêu cực trong đời sống xã hội, hình thành đối sách xử lý sớm, không để các thế lực thù địch tạo cớ cho bên ngoài can thiệp.

Tăng cường hợp tác quốc tế NCDB và TMCL về QS, QP; đào tạo nguồn nhân lực; chia sẻ thông tin, trao đổi học thuật với các cơ quan, trung tâm nghiên cứu chiến lược của các nước. Chú trọng phát huy lực lượng làm công tác đối ngoại, người Việt Nam ở nước ngoài… để thu thập thông tin và hình thành thế trận, vành đai an ninh BVTQ từ sớm, từ xa, góp phần thực hiện thắng lợi Chiến lược BVTQ trong tình hình mới.

Đại tá LÊ VĂN HƯỞNG, Viện Chiến lược và Lịch sử quốc phòng Việt Nam

* Mời bạn đọc vào chuyên mục  xem các tin, bài liên quan. 

Nguồn: https://www.qdnd.vn/quoc-phong-an-ninh/xay-dung-quan-doi/nang-cao-chat-luong-cong-tac-nghien-cuu-du-bao-va-tham-muu-chien-luoc-quoc-phong-trong-tinh-hinh-moi-836875