Cổng làng - nơi ký ức kết thành hình hài
Đi giữa những con đường nhỏ ven hồ Tây vào một buổi chiều lộng gió, không khó để bắt gặp một đình làng cổ thấp thoáng sau hàng bàng lá đỏ, hàng hoa hoàng yến vàng ươm... Ở phường Tây Hồ, nơi từng là dải đất ngoại thành của Kinh đô Thăng Long, đình làng không chỉ là kiến trúc đó là “thần hộ mệnh” của làng, nơi lưu giữ cả linh khí lẫn nếp sống cộng đồng.
Như cổng làng Yên Thái nằm ở đường Thụy Khuê, cũ kỹ mà uy nghi. Đây là cổng của làng nghề làm giấy nổi tiếng thời xưa, giấy dó Yên Thái từng được dâng lên triều đình, được các trí thức, nho sĩ ưa dùng. Trước cổng làng treo tấm hoành phi khắc 4 chữ vàng “Mỹ tục khả phong” được triều Nguyễn ban cho làng. Bên cạnh đó là bảng tưởng nhớ ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh đã về thăm nơi đây vào năm 1946. Mũ cổng xây cuốn vòm, mái ngói rêu bám, đôi câu đối chữ Hán còn phai nét nhưng vẫn nhắc nhớ thời hoàng kim. Dưới chân cổng, từng lẫn trong bụi thời gian, người ta dường như vẫn tìm thấy “hơi thở” của lịch sử những phiến đá mòn in bước chân bao thế hệ thợ giấy, từng gánh nước hồ, từng ngâm dó, từng phơi giấy trắng tinh trên triền đê. Hiện nay, tư liệu gốc về làng Yên Thái, về những cổng làng cổ đã không còn nhiều. Nhắc về làng Yên Thái, người ta chỉ còn nhớ câu ca dao nổi tiếng: “Mịt mù khói tỏa ngàn sương/Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ”.
Xa hơn một chút là cổng làng Yên Phụ. Tên “Yên Phụ” mới xuất hiện từ giữa thế kỷ thứ 19 đến nay, hiện cổng thuộc địa phận phường Tây Hồ. Cổng làng Yên Phụ xây theo lối “Tam quan” có nghĩa là ba cửa, thường bao gồm một cửa lớn ở giữa và hai cửa nhỏ hơn ở hai bên. Đây là thiết kế phổ biến tại các đình, chùa, miếu mạo và cổng làng, mang ý nghĩa sâu sắc về văn hóa và tín ngưỡng. Cổng làng Yên Phụ cũng không ngoại lệ, với ba lối đi tượng trưng cho ba con đường dẫn vào làng, tạo nên sự cân đối và trang trọng. Một trong những điểm nhấn đặc biệt của cổng làng Yên Phụ chính là những chi tiết đắp nổi tinh xảo trên mái ngói. Phía trên cổng, du khách có thể dễ dàng nhận thấy hình ảnh kỳ lân và phượng múa được chạm khắc vô cùng sống động và uyển chuyển. Những hình ảnh này không chỉ mang ý nghĩa trang trí mà còn gửi gắm mong ước về một cuộc sống bình an, ấm no, hạnh phúc cho toàn thể người dân trong làng.
Nhắc đến những cánh cổng làng ở Tây Hồ, có lẽ không thể bỏ qua cổng Đông Xã. Làng Đông Xã vốn là một thôn của làng Yên Thái tách ra thành một xã độc lập từ đời Duy Tân (1907 - 1915), nay thuộc phường Tây Hồ, thời Lê nằm trong phường Yên Thái của Kinh thành Thăng Long; thời Nguyễn thuộc tổng Trung, huyện Vĩnh Thuận. Đây là một làng cổ ở ven hồ. Đến nay vẻ đẹp cổ kính, đài các của cổng làng Đông Xã vẫn khiến người ta có cảm giác như sắp bước vào một vương quốc mềm như tơ, sáng như nắng sớm.
Nói về những cánh cổng làng xưa kia, làng Hồ Khẩu là nơi có nhiều cổng nhất tại đất Kẻ Bưởi, với 3 cổng lớn bề thế, vững chãi. Lịch sử của làng Hồ Khẩu gắn liền với thời Hùng Vương dựng nước. Đó là một ngôi đình cổ nằm bên bờ hồ Tây, đến thời Nguyễn thì di dời vào làng, đặt ở vị trí trung tâm làng hiện nay. Đình làng có nhiều đồ thờ và hoành phi câu đối sơn son thếp vàng.
Chuyện xưa kể rằng, sau khi hai đức Thánh của làng Hồ Khẩu giúp Vua Hùng đánh giặc giữ nước thắng lợi, dân làng đã mở hội khải hoàn ở cổng làng và ghi hai câu đối ở cổng giữa với nội dung mang ý nghĩa: Nơi đây cởi bỏ áo giáp, còn nghe rõ tiếng sóng kình vọng tới, còn nghe cả tiếng ngựa hí. Ðến nay trẻ già còn truyền lại sự việc đó. Trước đây, cổng chính của làng chỉ được mở ra khi có lễ hội hoặc dịp quan trọng. Giờ đây đã trở thành nơi họp chợ của người dân.
Ngoài ra, còn rất nhiều vết tích về cổng làng khác, đó là minh chứng cho những làng cổ xưa kia đã tồn tại trên mảnh đất Tây Hồ, như làng Trích Sài, làng Võng Thị... từng ngôi làng đều có một nghề truyền thống riêng biệt và những câu chuyện lịch sử còn được lưu giữ đến ngày nay.
Giữ gìn hồn cốt Tây Hồ qua những cánh cổng thời gian
Tây Hồ được biết đến là vùng đất cổ phía Tây Kinh thành Thăng Long xưa, nơi lưu giữ hệ thống di sản văn hóa phong phú, các làng cổ, làng nghề truyền thống từ nhiều đời nay với hệ tích di tích, đặc biệt là những di tích lịch sử xung quanh hồ Tây tạo nên một vùng trầm tích văn hóa mang dấu ấn đậm nét của Kinh thành Thăng Long ngàn năm văn hiến.
Tại các làng ở Tây Hồ xưa kia đều có nhiều ngõ nhỏ thông với nhau để người làng đi lối nào cũng có thể về nhà. Cấu trúc này thuận tiện cho cuộc sống canh tác lúa của người Việt. Và chính cấu trúc làng quần cư nông nghiệp như vậy đã hình thành các thiết chế xã hội, tổ chức bộ máy quản lý trong mỗi làng. Khi tới mỗi ngôi làng của vùng Tây Hồ, một trong những hình ảnh gây ấn tượng với du khách đó là chiếc cổng làng, một công trình khẳng định ranh giới của làng và cũng là biểu tượng của làng.
Bước qua mỗi cánh cổng làng là ta như được bước về ngôi nhà thân thuộc, mà ở đó có bầu không khí chung, chính là những quy tắc, những lối sống văn hóa, sinh hoạt đặc trưng của mỗi làng được người dân bao thế hệ hình thành và xây dựng nên. Đằng sau mỗi cánh cổng làng vì thế cũng chính là không gian cho những hương ước của làng được gìn giữ và phát huy.
Về mặt kiến trúc, mỗi cổng làng mang trong mình những nét đặc trưng riêng biệt, phản ánh sự sáng tạo và tài hoa của người xưa. Từ những vật liệu truyền thống như đá ong, gạch cổ, gỗ lim đến những hoa văn chạm khắc tinh xảo, tất cả đều thể hiện sự kết hợp hài hòa giữa yếu tố thẩm mỹ và công năng sử dụng. Không gian xung quanh cổng làng thường được bố trí giếng nước, sân đình, ô lọng... tạo nên một tổng thể kiến trúc đậm chất cổ kính, đài các.
Đặc biệt, cổng làng còn đóng vai trò quan trọng trong đời sống xã hội và tâm linh của cộng đồng. Đây là nơi diễn ra các hoạt động cộng đồng như lễ hội, họp làng, đón tiếp khách quý và cũng là nơi thể hiện sự tôn kính đối với tổ tiên, thần linh.
Những năm gần đây, sự phát triển nhanh của Tây Hồ đặt không ít những di tích phải đối mặt với những thách thức. Tuy nhiên, chính quyền địa phương và người dân ở phường Tây Hồ vẫn luôn nỗ lực gìn giữ, bảo tồn và lưu truyền những nét đẹp truyền thống của ông cha từ xa xưa.
Tại khu vực xung quanh cổng làng Yên Thái, quá trình trùng tu cổng làng được thực hiện cẩn trọng, giữ nguyên chất liệu và tỷ lệ kiến trúc cổ. Người dân còn lập đội nhóm thường xuyên quét dọn, thắp hương vào dịp lễ, Tết để cổng làng luôn được đối đãi như một vị “thành hoàng” trấn giữ cửa ngõ.
Ở cổng làng Hồ Khẩu, khi phố thị, những tòa nhà cao tầng “mọc lên”, cổng làng càng được xem như biểu tượng lưu giữ linh hồn của vùng đất. Các bức ảnh cưới, ảnh kỷ yếu chụp trước cổng làng từ lâu đã trở thành nét văn hóa riêng, như cách người trẻ tri ân những giá trị xưa.
Tại cổng Hầu (lối vào làng An Thọ) cũng được chính quyền tu bổ biển ngạch, sơn sửa tu bổ vào những năm 1998, tuy nhiên, kiến trúc cổ vẫn được lưu giữ. Đến nay, cánh cổng làng An Thái vẫn được những người dân ở phường Tây Hồ dành trọn tình yêu mến, tiếp tục kể lại những tích xưa, truyện cũ cho thế hệ trẻ nối tiếp truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
Thực tế, cổng làng không chỉ là vật thể kiến trúc. Đó là bằng chứng sống cho thấy phường Tây Hồ từng là mạng lưới các làng nghề, là không gian văn hóa có chiều sâu lịch sử. Bảo tồn cổng làng chính là giữ lại những mạch ngầm văn hóa để dù trong tương lai, vùng đất Tây Hồ có hiện đại đến đâu, người ta vẫn nhận ra hồn cốt của mảnh đất “non nước hữu tình” này.
Nguồn: https://baophapluat.vn/nhung-canh-cong-lang-tay-ho-dau-cham-cua-lich-su.html










Bình luận (0)