Tổng Bí thư Tô Lâm dự Lễ kỷ niệm 80 năm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam và 35 năm Ngày hội Quốc phòng toàn dân, ngày 20-12-2024_Ảnh: mod.gov.vn
Xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh là chủ trương chiến lược xuyên suốt của Đảng và Nhà nước ta, là nhiệm vụ, nội dung rất quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đảng ta luôn phát triển tư duy lý luận để kịp thời có chủ trương, đường lối lãnh đạo toàn dân, toàn quân xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, tạo nên sức mạnh tổng hợp để tăng cường quốc phòng, an ninh; nhằm ngăn ngừa, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch; thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới. Những phát triển tư duy lý luận của Đảng ta về xây dựng nền quốc phòng toàn dân trong tình hình mới, nhất là từ Đại hội XII của Đảng đến nay được thể hiện trên một số vấn đề chủ yếu sau:
Thứ nhất, về mục tiêu xây dựng nền quốc phòng toàn dân
Đảng ta xác định mục tiêu hàng đầu trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân là không ngừng nâng cao sức mạnh phòng thủ đất nước, tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc. Văn kiện Đại hội XII và XIII của Đảng khẳng định: Xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, tăng cường quốc phòng, an ninh, nhằm “bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa, nền văn hóa và lợi ích quốc gia - dân tộc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia... để phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”(1). Đến Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XIII về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, trên cơ sở quan điểm về quốc phòng, an ninh tại Đại hội XII và XIII, với tư duy mới về bảo vệ Tổ quốc, mục tiêu xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh được Đảng ta xác định, phát triển đầy đủ hơn: bảo vệ sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa... Theo đó, xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh toàn diện cả về tiềm lực, lực lượng, thế trận, luôn gắn với xây dựng nền an ninh nhân dân; chủ động ngăn ngừa, làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, chủ động đánh thắng mọi loại hình chiến tranh xâm lược của địch, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Thứ hai, về quan điểm xây dựng nền quốc phòng toàn dân
Để thực hiện thắng lợi mục tiêu nói trên, Đảng ta nêu ra 4 quan điểm trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân, bao gồm: (1). Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của Nhà nước trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân; (2). Xây dựng nền quốc phòng toàn dân nhằm ngăn ngừa, đẩy lùi nguy cơ xung đột vũ trang và chiến tranh xâm lược; sẵn sàng đánh thắng chiến tranh xâm lược, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong mọi tình huống; (3). Xây dựng nền quốc phòng toàn dân, toàn diện, độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, từng bước hiện đại; (4). Phát huy sức mạnh tổng hợp của đất nước, của khối đại đoàn kết toàn dân tộc; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân. Qua các kỳ đại hội, nhất là từ Đại hội XII của Đảng đến nay, trong từng quan điểm xây dựng nền quốc phòng toàn dân luôn có sự bổ sung, phát triển mới đáp ứng với từng giai đoạn lịch sử.
Bảo đảm giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của Nhà nước trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân là quan điểm nhất quán, xuyên suốt của Đảng. Từ Đại hội XII đến nay, Đảng ta tiếp tục khẳng định, cụ thể hóa và lãnh đạo Nhà nước thể chế hóa sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với sự nghiệp quốc phòng, an ninh cũng như sự nghiệp xây dựng nền quốc phòng toàn dân. Đại hội XIII của Đảng xác định: “Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước đối với Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và sự nghiệp quốc phòng, an ninh”(2).
Về quan điểm xây dựng nền quốc phòng toàn dân, toàn diện, độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, từng bước hiện đại, Đảng ta khẳng định: Quán triệt đường lối độc lập, tự chủ, đồng thời chủ động, tích cực hội nhập quốc tế trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân. Thực hiện chính sách “bốn không”: “không tham gia liên minh quân sự; không liên kết với nước này để chống nước kia; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ Việt Nam để chống lại nước khác; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế”(3). Đến Đại hội XIII, Đảng ta nhấn mạnh: “Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng; Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”(4). Theo đó, xây dựng nền quốc phòng toàn dân Việt Nam mang tính chất hòa bình và tự vệ; giải quyết mọi tranh chấp, bất đồng bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế. Tích cực, chủ động ngăn ngừa, đẩy lùi nguy cơ xung đột vũ trang và chiến tranh xâm lược; thực hiện phương châm bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa”, sẵn sàng đánh thắng chiến tranh xâm lược của kẻ thù trong mọi tình huống.
Về quan điểm phát huy sức mạnh tổng hợp của đất nước, của khối đại đoàn kết toàn dân; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân, Đảng ta xác định, xây dựng sức mạnh tổng hợp của nền quốc phòng toàn dân về chính trị, tư tưởng, kinh tế - xã hội, văn hóa, quốc phòng, an ninh, đối ngoại; từ sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, trong đó lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt. “Tiếp tục phát triển nhanh và bền vững đất nước; gắn kết chặt chẽ và triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, trong đó phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần; bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên”(5).
Tư duy lý luận của Đảng về nội dung xây dựng nền quốc phòng toàn dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc được phát triển toàn diện, với nhiều điểm bổ sung mới. Theo quan điểm của Đảng, nội dung xây dựng nền quốc phòng toàn dân bao gồm: xây dựng tiềm lực nền quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng nền quốc phòng toàn dân và xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân.
Thứ ba, về xây dựng tiềm lực nền quốc phòng toàn dân
Tiềm lực của nền quốc phòng toàn dân là khả năng về nhân lực, vật lực, tài chính, tinh thần ở trong nước và ngoài nước có thể huy động để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Đảng ta xác định, xây dựng tiềm lực quốc phòng phải toàn diện, kết hợp chặt chẽ các tiềm lực chính trị, tinh thần, kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học - công nghệ, quân sự, an ninh và đối ngoại trong một thể thống nhất. Các tiềm lực đó được xây dựng từ thời bình, chuyển hóa năng động, hiệu quả khi có chiến tranh. Từ Đại hội XII đến nay, trong tư duy lý luận của Đảng ta có sự phát triển mới về xây dựng tiềm lực nền quốc phòng toàn dân. Ngoài các tiềm lực đã được xác định, có bổ sung thêm vấn đề xây dựng tiềm lực đối ngoại của nền quốc phòng toàn dân. Trong xây dựng tiềm lực kinh tế, đã mở rộng nguồn lực xây dựng tiềm lực kinh tế, bao gồm xây dựng các khả năng của nền kinh tế có thể huy động cho thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh; đặc biệt coi trọng xây dựng tiềm lực kinh tế, phát triển công nghiệp quốc gia luôn gắn với phát triển công nghiệp quốc phòng; huy động mọi nguồn lực từ địa phương và nguồn lực xã hội trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng chỉ rõ: “Xây dựng, phát triển nền công nghiệp quốc phòng, công nghiệp an ninh hiện đại, lưỡng dụng, vừa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc vừa góp phần quan trọng phát triển kinh tế - xã hội; xây dựng và củng cố các tuyến phòng thủ biên giới, biển, đảo; có cơ chế huy động nguồn lực từ địa phương và nguồn lực xã hội cho xây dựng tiềm lực quốc phòng, an ninh tại các khu vực phòng thủ”(6). Tư duy lý luận của Đảng có sự phát triển mới trong lãnh đạo thực hiện xây dựng nền công nghiệp quốc phòng phục vụ nền quốc phòng toàn dân: “Xây dựng nền công nghiệp quốc phòng chủ động, tự lực, tự cường, lưỡng dụng, hiện đại, trở thành mũi nhọn của công nghiệp quốc gia; công nghiệp quốc phòng phải làm chủ được công nghệ tiên tiến, hiện đại, đáp ứng nhiệm vụ xây dựng Quân đội hiện đại, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa”(7).
Thứ tư, về xây dựng lực lượng nền quốc phòng toàn dân
Tư duy lý luận của Đảng về xây dựng lực lượng nền quốc phòng toàn dân (bao gồm lực lượng toàn dân và lực lượng vũ trang nhân dân) cũng có sự phát triển mới. Về xây dựng lực lượng toàn dân, Đảng ta nhấn mạnh: Tập trung xây dựng hệ thống chính trị các cấp, các ngành từ Trung ương đến các địa phương trong sạch, vững mạnh, bao gồm các cơ quan, tổ chức đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và toàn dân. Xây dựng lực lượng toàn dân phù hợp với cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, các loại hình tổ chức kinh tế - xã hội, điều kiện của từng vùng, miền, địa phương trên cả nước; có như vậy mới phát huy được sức mạnh tổng hợp của toàn dân trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc.
Nơi biên cương thắm tình quân dân_Nguồn: nhiepanhdoisong.vn
Cùng với xây dựng lực lượng toàn dân, Đảng ta chủ trương xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân (Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và dân quân tự vệ) tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân; là lực lượng nòng cốt trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân, cũng như trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Bàn về xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, Văn kiện Ðại hội XII của Đảng xác định: “Xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, ưu tiên hiện đại hóa một số quân chủng, binh chủng, lực lượng...”(8). Đến Đại hội XIII, Đảng ta đã bổ sung, phát triển, xác định cụ thể hơn mục tiêu, lộ trình xây dựng, hiện đại hóa Quân đội nhân dân, Công an nhân dân: “Đến năm 2025, cơ bản xây dựng Quân đội, Công an tinh, gọn, mạnh, tạo tiền đề vững chắc, phấn đấu năm 2030 xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại; vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ...”(9). Đồng thời, Đảng ta có sự bổ sung và phát triển mới về vấn đề xây dựng lực lượng dự bị động viên và dân quân tự vệ: “Xây dựng lực lượng dự bị động viên hùng hậu và dân quân tự vệ vững mạnh, rộng khắp trên các vùng, miền, trên biển”(10). Sự phát triển mới trong tư duy lý luận của Đảng ta về xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân - lực lượng nòng cốt của nền quốc phòng toàn dân là phù hợp với xu thế thời đại, tình hình phát triển đất nước, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Thứ năm, về xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân
Về xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, tư duy lý luận của Đảng ta có sự phát triển mới. Xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân luôn gắn với thế trận an ninh nhân dân; đặc biệt, “thế trận lòng dân” là nhân tố quan trọng, luôn được Đảng ta quan tâm trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới nhấn mạnh, coi trọng xây dựng tiềm lực chính trị - tinh thần, “thế trận lòng dân”; kết hợp chặt chẽ thế trận quốc phòng toàn dân với thế trận an ninh nhân dân”. Văn kiện Đại hội XII của Đảng xác định: “Xây dựng “thế trận lòng dân”, tạo nền tảng vững chắc xây dựng nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân”(11). Đến Đại hội XIII, Đảng ta tiếp tục khẳng định và phát triển thêm: “xây dựng và phát huy mạnh mẽ “thế trận lòng dân” trong nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân; xây dựng và củng cố vững chắc thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân”(12). Đảng ta luôn phát triển tư duy lý luận về xây dựng nền quốc phòng toàn dân phù hợp với tình hình, nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng mới. Theo đó, việc quy hoạch, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân phải gắn với quy hoạch tổng thể quốc gia, quy hoạch vùng và các quy hoạch khác. Kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng, an ninh; xây dựng thế trận phòng thủ quân khu, xây dựng các tỉnh, thành phố thành khu vực phòng thủ vững chắc gắn với thế trận, bố trí các lực lượng vũ trang trên từng vùng, hướng chiến lược. Tổ chức phòng thủ dân sự, phòng, chống, khắc phục hậu quả thảm họa, thiên tai. Tại Đại hội XIII, Đảng ta xác định: “thiết lập thế trận an ninh liên hoàn bên trong với bên ngoài biên giới quốc gia và trên không gian mạng; đặc biệt coi trọng an ninh mạng”(13); tạo nên thế trận vững chắc, tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa./.
-------------------
(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 156
(2) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 160 - 161
(3) Bộ Quốc phòng: Quốc phòng Việt Nam 2019, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2019, tr. 25
(4) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 162
(5) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 110
(6) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 158 - 159
(7) Nghị quyết số 08-NQ/TW, ngày 26-1-2022, của Bộ Chính trị, về “Đẩy mạnh phát triển công nghiệp quốc phòng đến năm 2030 và những năm tiếp theo”
(8) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 149
(9), (10) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 158
(11) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr. 149
(12) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 157
(13) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 280
Nguồn: https://tapchicongsan.org.vn/web/guest/quoc-phong-an-ninh-oi-ngoai1/-/2018/1097502/nhung-phat-trien-tu-duy-ly-luan-cua-dang-ve-xay-dung-nen-quoc-phong-toan-dan-trong-tinh-hinh-moi.aspx
Bình luận (0)