Vietnam.vn - Nền tảng quảng bá Việt Nam

Chuyển đổi số đáp ứng yêu cầu sắp xếp, tinh gọn bộ máy trong hệ thống chính trị

TCCS - Tổng kết Nghị quyết số 18-NQ/TW, ngày 25-10-2017, của Hội nghị Trung ương 6 khóa XII về “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả” nhằm giảm các tầng nấc trung gian, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý. Trong bối cảnh chung, chuyển đổi số được xem là giải pháp đột phá, quan trọng.

Tạp chí Cộng SảnTạp chí Cộng Sản23/06/2025

Tổng Bí thư Tô Lâm cùng các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước tham quan không gian giới thiệu ứng dụng chuyển đổi số trong các cơ quan Đảng_Nguồn: nhandan.vn

Sự cấp thiết và vai trò của chuyển đổi số trong sắp xếp, tinh gọn, bộ máy hệ thống chính trị hiện nay

Sắp xếp, tinh gọn bộ máy là quá trình cắt giảm các tầng nấc trung gian không hiệu quả, từ đó tạo ra một bộ máy nhà nước tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Hiện nay, cuộc cách mạng sắp xếp, tinh gọn bộ máy theo tinh thần Nghị quyết số 18-NQ/TW đang diễn ra đồng bộ, quyết liệt trong các cơ quan, tổ chức, đơn vị của cả hệ thống chính trị. Cụ thể: Chính phủ đã tinh gọn từ 30 đầu mối xuống còn 22 đầu mối (giảm 5 bộ, cơ quan ngang bộ và 3 cơ quan thuộc Chính phủ)(1); không duy trì mô hình tổng cục và các tổ chức tương đương thuộc bộ; giảm 519 cục, 219 vụ, 3.303 chi cục và tương đương.

Việc sắp xếp, tinh gọn bộ máy theo tinh thần Nghị quyết số 18-NQ/TW không chỉ giảm số lượng các cơ quan, bộ, ngành, địa phương mà còn yêu cầu thay đổi toàn diện về cách thức vận hành và quản lý hành chính. Giảm bớt các cơ quan, đơn vị cấp trung gian, hay việc hợp nhất các bộ, ngành, địa phương, tạo ra một bộ máy hành chính tinh gọn hơn, nhưng cũng đặt ra những thách thức không nhỏ trong việc duy trì hiệu quả công việc và bảo đảm tính minh bạch, chính xác trong công tác quản lý(2).

Để bảo đảm đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị theo hướng “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả”, đáp ứng yêu cầu của kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, giải pháp đột phá, quan trọng là chuyển đổi số. Cần “ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong hoạt động điều hành để cải cách tổ chức bộ máy của các cơ quan, đơn vị, tổ chức trong hệ thống chính trị, tiên phong là các cơ quan Đảng”(3). Giải pháp quan trọng trong sắp xếp, tinh gọn bộ máy của hệ thống chính trị là chú trọng chuyển đổi quy trình nội bộ cũng như mối quan hệ giữa các cấp, cơ quan, tổ chức trong bộ máy trên cơ sở ứng dụng công nghệ số. Việc chuyển đổi số, ứng dụng công nghệ số, xây dựng Chính phủ số, chính quyền số sẽ giúp thay đổi cơ bản cách thức quản lý, giúp cơ quan, tổ chức phản ứng nhanh với tình huống khẩn cấp, tăng cường mối quan hệ tương tác giữa chính quyền với người dân(4).

Xét ở góc độ bao quát nhất, chuyển đổi số là quá trình thay đổi tổng thể và toàn diện của cá nhân, tổ chức về cách sống, cách làm việc và phương thức sản xuất dựa trên công nghệ số(5). Chuyển đổi số là bước phát triển tiếp theo của tin học hóa, nhờ sự tiến bộ vượt bậc của những công nghệ mới mang tính đột phá, nhất là công nghệ số(6). Xây dựng Chính phủ điện tử, Chính phủ số là một trong ba cấu phần chính của chuyển đổi số, đóng vai trò quan trọng trong sắp xếp, tinh gọn bộ máy trong hệ thống chính trị.

Nhận thức được xu thế và tầm quan trọng của việc chuyển đổi số, với kỳ vọng cuộc cách mạng số sẽ thực sự tạo ra được sự bứt phá cho đất nước trong giai đoạn tới, thúc đẩy mạnh mẽ chuyển đổi số quốc gia, phát triển kinh tế số, xã hội số để nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế, những khái niệm như "chuyển đổi số, kinh tế số, xã hội số" lần đầu tiên được đề cập trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng (năm 2021). Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng xác định, một trong những định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021 - 2030 và nhiệm vụ trọng tâm trong nhiệm kỳ là đẩy mạnh chuyển đổi số quốc gia, phát triển kinh tế số trên nền tảng khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo(7). Đại hội cũng khẳng định, cùng với sự phát triển mạnh mẽ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số là một trong ba trụ cột thực hiện phát triển nhanh, phát triển bền vững; đồng thời là một trong những khâu đột phá lớn, góp phần “tạo bứt phá về năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh”.

Thực hiện và cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, ngày 22-12-2024, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Theo đó, phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia là đột phá quan trọng hàng đầu, là động lực chính để phát triển nhanh lực lượng sản xuất hiện đại, hoàn thiện quan hệ sản xuất, đổi mới phương thức quản trị quốc gia, phát triển kinh tế - xã hội, ngăn chặn nguy cơ tụt hậu, đưa đất nước phát triển bứt phá, giàu mạnh, văn minh trong kỷ nguyên mới. Nghị quyết số 57-NQ/TW xác định phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia là cuộc cách mạng sâu sắc, toàn diện trên tất cả các lĩnh vực; được triển khai quyết liệt, kiên trì, đồng bộ, nhất quán, lâu dài với những giải pháp đột phá, mang tính cách mạng. Người dân và doanh nghiệp là trung tâm, là chủ thể, nguồn lực, động lực chính; nhà khoa học là nhân tố then chốt; Nhà nước giữ vai trò dẫn dắt, thúc đẩy, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Một trong các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm trong Nghị quyết số 57-NQ/TW là đẩy mạnh chuyển đổi số, ứng dụng khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo trong hoạt động của các cơ quan trong hệ thống chính trị; nâng cao hiệu quả quản trị quốc gia, hiệu lực quản lý nhà nước trên các lĩnh vực, bảo đảm quốc phòng và an ninh. Thành lập Ban Chỉ đạo Trung ương về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, do đồng chí Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng làm Trưởng Ban.

Trước đó, tại Nghị quyết số 52-NQ/TW, ngày 27-9-2019, về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, Bộ Chính trị xác định nội dung cốt lõi của chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư của nước ta là thúc đẩy chuyển đổi số quốc gia, trọng tâm là phát triển kinh tế số, xây dựng đô thị thông minh, chính quyền điện tử, tiến tới chính quyền số. Chính sách thúc đẩy chuyển đổi số trong các cơ quan của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội được thể hiện rõ tại Nghị quyết số 52-NQ/TW, cụ thể: (i) Tiên phong thực hiện chuyển đổi số mạnh mẽ trong các cơ quan của Đảng, Quốc hội, Chính phủ, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội bảo đảm thống nhất, kết nối liên thông và đồng bộ; (ii) Xây dựng cơ sở dữ liệu số của Chính phủ và các cấp chính quyền, tạo điều kiện để mọi công dân có thể cập nhật thông tin cần thiết về hoạt động của bộ máy nhà nước. Đầu tư xây dựng hạ tầng thu thập, quản lý dữ liệu và giao dịch trên nền tảng internet ở các cơ quan nhà nước; (iii) Chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức đáp ứng yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; chuẩn hoá và tăng cường năng lực đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước các cấp; (iv) Phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, cơ chế phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước trong thực hiện chuyển đổi số. Hoàn thiện các quy trình, thủ tục hành chính phù hợp với hoạt động của chính quyền số, cắt giảm tối đa giao dịch trực tiếp.

Trong sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, Nghị quyết số 18-NQ/TW đã đặt ra một trong những nhiệm vụ, giải pháp chung đối với toàn bộ hệ thống chính trị là “tiếp tục cải cách hành chính mạnh mẽ, ứng dụng sâu rộng khoa học - công nghệ, nhất là công nghệ thông tin; đẩy mạnh xây dựng chính phủ điện tử, đô thị thông minh; tổng kết, đánh giá để có giải pháp sử dụng hiệu quả hạ tầng công nghệ thông tin, chống lãng phí, góp phần tinh gọn bộ máy và tinh giản biên chế”.

Ngày 24-1-2025, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII ban hành Kết luận số 121-KL/TW về tổng kết Nghị quyết số 18-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII “Một số vấn đề tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả". Tại Kết luận số 121-KL/TW, Ban Chấp hành Trung ương Đảng yêu cầu các cấp ủy, cơ quan, đơn vị, tổ chức, nhất là người đứng đầu quán triệt nguyên tắc, yêu cầu và chỉ đạo thực hiện tốt một số nhiệm vụ, giải pháp tiếp tục xây dựng, hoàn thiện tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, trong đó có nhiệm vụ, giải pháp: Ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong hoạt động để cải cách tổ chức bộ máy của các cơ quan, đơn vị, tổ chức trong hệ thống chính trị; đi đầu là các cơ quan Đảng.

Nhận thức rõ về tầm quan trọng của chuyển đổi số, trước đó, ngày 3-6-2020, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Quyết định số 749/QĐ-TTg về “Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030” với mục tiêu kép là vừa phát triển Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số, vừa hình thành các doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam có năng lực đi ra toàn cầu. Việt Nam trở thành quốc gia số, ổn định và thịnh vượng, tiên phong thử nghiệm các công nghệ và mô hình mới; đổi mới căn bản, toàn diện hoạt động quản lý, điều hành của Chính phủ, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, phương thức sống, làm việc của người dân, phát triển môi trường số an toàn, nhân văn, rộng khắp. Với quan điểm chỉ đạo: (1) Nhận thức đóng vai trò quyết định trong chuyển đổi số. Theo đó, chuyển đổi số trước tiên là chuyển đổi nhận thức. Một cơ quan, tổ chức có thể tiến hành chuyển đổi số ngay thông qua việc sử dụng nguồn lực, hệ thống kỹ thuật sẵn có để số hóa toàn bộ tài sản thông tin của mình, tái cấu trúc quy trình nghiệp vụ, cơ cấu tổ chức và chuyển đổi các mối quan hệ từ môi trường truyền thống sang môi trường số; (2) Người dân là trung tâm của chuyển đổi số. Thiết bị di động thông minh là phương tiện chính của người dân trong thế giới số; (3) Thể chế và công nghệ là động lực của chuyển đổi số. Theo đó, thể chế cần phải đi trước một bước khi có thể.

Như vậy, chuyển đổi số trong cơ quan nhà nước, ứng dụng công nghệ số, xây dựng Chính phủ điện tử, Chính phủ số được coi là giải pháp mang tính đột phá trong sắp xếp, tinh gọn bộ máy trong hệ thống chính trị. Việc đẩy mạnh ứng dụng chuyển đổi số vào hoạt động quản lý, điều hành là giải pháp quan trọng để giảm tải công việc hành chính và cắt giảm nhân lực(8), giải quyết các thách thức trong công tác quản lý hành chính, qua đó nâng cao hiệu quả công việc, phục vụ người dân và doanh nghiệp tốt hơn, đồng thời đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

Chủ trương, chính sách của Đảng, quy định pháp luật về chuyển đổi số trong các cơ quan của Đảng, Nhà nước và một số kết quả bước đầu

Chủ trương, chính sách của Đảng: Trong quá trình lãnh đạo và tổ chức thực hiện, Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ đề ra các chủ trương, đường lối về chuyển đổi số quốc gia, mà đang thực hiện quyết liệt quá trình chuyển đổi số nhằm thực hiện tốt hơn, hiệu quả hơn trong công tác đảng; sử dụng thành tựu của công nghệ thông tin trong công tác quán triệt, triển khai thực hiện chỉ thị, nghị quyết của các cấp ủy đảng; nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ, kiện toàn tổ chức đảng; đưa việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trở thành ý thức tự giác, thành việc làm thường xuyên của các tổ chức đảng, chi bộ và mỗi đảng viên; công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng góp phần nâng cao tính tiên phong, tính chiến đấu của Đảng trong bối cảnh mới(9).

Ban Bí thư (khóa XIII) đã ban hành Quyết định số 27-QĐ/TW, ngày 10-8-2021, về chương trình ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của các cơ quan đảng giai đoạn 2021 - 2025, trong đó nhấn mạnh chuyển đổi số, cải cách hoạt động của các cơ quan đảng bằng số hóa là nhiệm vụ quan trọng, cần thiết nhằm hiện đại hóa, minh bạch hóa công tác đảng. Tiếp đó, ngày 29-11-2024, Ban Bí thư ban hành Quyết định số 204-QĐ/TW phê duyệt Đề án chuyển đổi số trong các cơ quan đảng. Theo đó, chuyển đổi số phải gắn với cải cách hành chính, đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, bảo đảm thống nhất, toàn diện trong tất cả các lĩnh vực công tác đảng từ Trung ương đến cơ sở. Tại tiểu mục 1, Mục II, của Đề án nêu rõ về mục tiêu tổng quát của chuyển đổi số trong các cơ quan đảng như sau:

Chuyển đổi số trong hoạt động của các cơ quan đảng nhằm đổi mới, tạo chuyển biến toàn diện, mạnh mẽ, thực chất, nâng cao chất lượng trong phương thức lãnh đạo, chỉ đạo điều hành, phong cách công tác, lề lối làm việc và nâng cao hiệu quả, giảm thời gian giải quyết công việc của cán bộ, công chức, viên chức các cấp, góp phần quan trọng vào cải cách thủ tục hành chính trong các cơ quan đảng.

Tổ chức hạ tầng số, nền tảng số tổng thể, đồng bộ, hiện đại; tăng cường năng lực, tái cấu trúc hạ tầng kỹ thuật và tổ chức, phát triển các hệ thống thông tin, dữ liệu theo kiến trúc thống nhất, tập trung tại Trung ương, ứng dụng công nghệ số đổi mới quy trình nghiệp vụ; tăng cường kết nối, tích hợp, chia sẻ thông tin, dữ liệu, hỗ trợ tích cực, hiệu quả cho công tác tham mưu, phục vụ và công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành tại các cơ quan đảng từ Trung ương đến cơ sở.

Kết nối, chia sẻ dữ liệu giữa các cơ quan đảng với các cơ quan nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội; kiện toàn tổ chức bộ máy, nguồn lực triển khai chuyển đổi số trong các cơ quan đảng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ; đồng thời bảo đảm an toàn, an ninh, bảo mật và xác thực thông tin theo quy định của pháp luật; phù hợp, tương đồng với Chương trình chuyển đổi số quốc gia.

Quy định pháp luật hiện hành

Trong giai đoạn mới, mặc dù công nghệ hiện đại là yếu tố quan trọng, nhưng con người và thể chế mới là yếu tố quyết định sự thành công của quá trình ứng dụng công nghệ vào vận hành của hệ thống hành chính(10). Nghị quyết số 57-NQ/TW cũng đã xác định, đối với chuyển đổi số, thể chế là nội dung trọng tâm, cốt lõi, là điều kiện tiên quyết, cần hoàn thiện và đi trước một bước.

Hiện tại, chưa có văn bản quy phạm pháp luật chung điều chỉnh chuyển đổi số trong cơ quan nhà nước, chính phủ điện tử, chính phủ số, chỉ mới có những văn bản quy phạm pháp luật chuyên ngành quy định một số nội dung của chính phủ điện tử, chính phủ số, như: Luật Công nghệ thông tin năm 2006 và các văn bản hướng dẫn; Luật Giao dịch điện tử năm 2023 và các văn bản hướng dẫn; Luật Lưu trữ năm 2024 và các văn bản hướng dẫn; Nghị định số 42-2022/NĐ-CP, ngày 24-6-2022 của Chính phủ quy định về việc cung cấp thông tin và dịch vụ công trực tuyến trên trang thông tin điện tử hoặc cổng thông tin điện tử của cơ quan nhà nước; Nghị định số 69/2024/NĐ-CP, ngày 25-6-2024, của Chính phủ về định danh và xác thực điện tử; Nghị định số 64/2007/NĐ-CP, ngày 10-4-2007, của Chính phủ quy định về ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của cơ quan nhà nước; Quy chế quản lý, vận hành khai thác Hệ thống thông tin báo cáo quốc gia và Trung tâm thông tin chỉ đạo điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; tiêu chuẩn, quy chuẩn, hướng dẫn kỹ thuật về Chính phủ số…

Trên cơ sở chủ trương, định hướng của Đảng, nội dung của những văn bản quy phạm pháp luật trên, các cơ quan, tổ chức, đơn vị trong hệ thống chính trị (Chính phủ(11), Quốc hội(12), Tòa án nhân dân(13), Viện kiểm sát nhân dân(14)) đã ban hành theo thẩm quyền văn bản hành chính quy định chi tiết về chuyển đổi số trong ngành, lĩnh vực của mình. Ngoài những quy định chung, các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cũng đã ban hành văn bản về chuyển đổi số.

Như vậy, hành lang pháp lý cho chuyển đổi số, xây dựng và phát triển Chính phủ điện tử, Chính phủ số đã từng bước hoàn thiện, tạo điều kiện thuận lợi cho các bộ, ngành, địa phương trong triển khai thực hiện chuyển đổi số, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động quản lý, điều hành, giải quyết công việc, thực thi công vụ và phát triển kinh tế - xã hội.

Một số kết quả bước đầu

Đến nay, hầu hết các tổ chức đảng, mặt trận, đoàn thể đã ứng dụng công nghệ số vào công tác điều hành, chỉ đạo hoạt động. Nhiều hội nghị, lớp bồi dưỡng chuyên đề về chuyển đổi số, công nghệ thông tin cho lãnh đạo, cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, người lao động, cán bộ làm công tác đảng, mặt trận, đoàn thể đã được tổ chức. Từ đó, tạo chuyển biến nhận thức trong tư duy, tác phong công tác, lề lối làm việc của cán bộ, công chức, góp phần đổi mới phương thức lãnh đạo, nâng cao hiệu quả chỉ đạo và điều hành, đẩy mạnh cải cách hành chính trong Ðảng, mặt trận, đoàn thể. Hiện nay, 100% các văn bản, tài liệu, báo cáo của các tổ chức, cơ quan đảng cấp tỉnh và Trung ương phát hành được ký số, xử lý, gửi, nhận trên môi trường số. Chuyển đổi số đã trở thành hoạt động thường xuyên, bảo đảm thiết thực, hiệu quả, tiết kiệm kinh phí và thời gian, tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân khi tiếp nhận, xử lý, nghiên cứu, tra cứu tài liệu, dữ liệu; triển khai thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp bảo đảm khoa học, đồng bộ, hiệu quả. Phần lớn các tổ chức cơ sở đảng ở địa bàn dân cư, thuộc các vùng, miền đã triển khai ứng dụng công nghệ, thực hiện chuyển đổi số(15).

Tại các cơ quan hành chính, việc chuyển đổi số cũng đã đem lại những kết quả rất tích cực trong nhiều lĩnh vực khác nhau:

Về xây dựng nền tảng phát triển Chính phủ điện tử: Theo thống kê của Bộ Thông tin và Truyền thông, nền tảng tích hợp chia sẻ dữ liệu quốc gia (NDXP) đã thiết lập được 388 điểm kết nối giữa các hệ thống và cơ sở dữ liệu của 95 cơ quan, đơn vị, hằng ngày có khoảng 2,29 triệu giao dịch. Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư đã kế nối với 18 cơ sở dữ liệu chuyên ngành của các bộ, cơ quan, tăng 3 đầu mối so với năm 2023. Theo Báo cáo khảo sát Chính phủ điện tử năm 2024 (E-Government Development Index - EGDI) của Liên hợp quốc, Việt Nam được xếp hạng ở vị trí thứ 71 trong tổng số 193 quốc gia, tăng 15 bậc so với năm 2022; lần đầu tiên được xếp vào nhóm EGDI ở mức “Rất Cao” và đạt vị trí xếp hạng cao nhất kể từ khi bắt đầu tham gia đánh giá EGDI của Liên hợp quốc năm 2003.

Về xây dựng các hệ thống thông tin đổi mới lề lối, phương thức làm việc của cơ quan nhà nước: Theo thống kê của Văn phòng Chính phủ, từ ngày 1-1-2024 đến 20-12-2024 số lượng văn bản điện tử gửi, nhận trên Trục liên thông văn bản quốc gia là trên 12,2 triệu văn bản, tăng hơn 4 triệu văn bản so với năm 2023 (năm 2023 có hơn 8,2 triệu văn bản gửi, nhận trên Trục); lũy kế đã có hơn 46,5 triệu văn bản gửi, nhận trên Trục liên thông văn bản quốc gia, tăng hơn 18,3 triệu văn bản so với năm 2023. Hệ thống thông tin phục vụ họp và xử lý công việc của Chính phủ (e-Cabinet) tiếp tục phát huy hiệu quả, tính đến nay, hệ thống đã phục vụ 111 hội nghị, phiên họp của Chính phủ, tăng 25 phiên họp so với năm 2023; thực hiện xử lý 2.685 phiếu lấy ý kiến thành viên Chính phủ, tăng 685 phiếu so với năm 2023, thay thế hơn 932 nghìn hồ sơ, tài liệu giấy, tăng 278 nghìn hồ sơ, tài liệu so với năm 2023(16)

Về xây dựng, phát triển các hệ thống thông tin phục vụ người dân, doanh nghiệp, cung cấp dịch vụ công trực tuyến trong năm 2024: 

Tỷ lệ hồ sơ trực tuyến của bộ, ngành đạt 59,57% (30.994.321 hồ sơ trực tuyến/52.033.997 hồ sơ được đồng bộ, tăng gần 2 lần so với năm 2023); địa phương đạt 56% (21.730.419 hồ sơ trực tuyến/38.881.238 hồ sơ được đồng bộ, tăng 1,92 lần so với năm 2023). Tỷ lệ thanh toán trực tuyến trên Cổng Dịch vụ công quốc gia (chỉ tiêu năm 2024: 45%): tại các bộ, ngành đạt 57,26% (1.352.544 giao dịch thanh toán trên Cổng/2.361.913 giao dịch thanh toán dịch vụ công) và các địa phương đạt 50,27% (11.379.077 giao dịch thanh toán trên Cổng/22.636.212 giao dịch thanh toán dịch vụ công)(17).

Tỷ lệ số hóa hồ sơ, kết quả giải quyết thủ tục hành chính tại các bộ, ngành đạt 61,40% (31.174.607 hồ sơ được số hóa/50.775.346 hồ sơ giải quyết) và các địa phương đạt 67,46% (26.229.283 hồ sơ được số hóa /38.881.238 hồ sơ giải quyết). Tỷ lệ hồ sơ cấp kết quả bản điện tử có giá trị pháp lý để tái sử dụng tại các bộ, ngành đạt 63,08% (32.028.690 kết quả điện tử /50.775.346 kết quả giải quyết) và tại các địa phương đạt 63,08% (24.526.284 kết quả điện tử/38.881.238 kết quả giải quyết); trong khi đó tỷ lệ khai thác, sử dụng lại thông tin, dữ liệu số hóa tại các bộ, ngành chỉ đạt 1,35% (686.701 kết quả điện tử được tái sử dụng/50.866.740 kết quả giải quyết), tại các địa phương đạt 21,50% (8.539.110 kết quả điện tử được tái sử dụng/39.716.790 kết quả giải quyết), còn thấp so với chỉ tiêu của Chính phủ (tối thiểu 50%).

Đại biểu tham quan mô hình chuyển đổi số tại các đơn vị trong lực lượng công an nhân dân tại Hội nghị trực tuyến toàn quốc Chuyển đổi số lần thứ 3 và sơ kết 2 năm thực hiện Kế hoạch số 377 về số hóa hồ sơ, tài liệu trong lực lượng công an nhân dân_Ảnh: TTXVN

Một số giải pháp, kiến nghị đẩy mạnh chuyển đổi số trong sắp xếp, tinh gọn bộ máy hệ thống chính trị hiện nay

Thứ nhất, tiếp tục tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến cán bộ, công chức, viên chức, người dân và doanh nghiệp về tầm quan trọng và sự cấp thiết của việc chuyển đổi số, xây dựng Chính phủ điện tử, hướng tới Chính phủ số trong sắp xếp, tinh gọn bộ máy hệ thống chính trị hiện nay. Tạo sự đồng thuận, thống nhất cao trong toàn hệ thống chính trị, đặc biệt là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý để đạt được các mục tiêu đã đề ra.

Thứ hai, hoàn thiện hệ thống thể chế cho Chính phủ số và quản trị quốc gia hiện đại, hiệu lực, hiệu quả. Việc xây dựng và hoàn thiện Chính phủ số trong nền quản trị quốc gia hiện đại, hoạt động hiệu lực, hiệu quả ở Việt Nam phải gắn chặt với quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Cần nghiên cứu, đề xuất xây dựng Luật Chính phủ điện tử và các văn bản hướng dẫn bảo đảm hành lang pháp lý phát triển Chính phủ điện tử dựa trên dữ liệu mở, ứng dụng các công nghệ mới hướng tới nền kinh tế số, xã hội số(18).

Thứ ba, xây dựng mô hình chính quyền điện tử thống nhất, thiết lập mô hình chính quyền điện tử thống nhất từ Trung ương đến địa phương, với cấu trúc phù hợp với bộ máy của hệ thống chính trị sau khi sắp xếp, tinh gọn. Mô hình này cần bảo đảm tính liên thông, thống nhất và đồng bộ trong điều hành, quản lý nhà nước. Hệ thống thông tin báo cáo, thống kê và phân tích dữ liệu cần được thiết kế để phù hợp với cơ cấu tổ chức mới sau sắp xếp, tinh gọn.

Thứ tư, kiện toàn tổ chức bộ máy tham mưu, chuyên trách về chuyển đổi số. Nâng cao vai trò tham mưu, tư vấn, điều phối của ban chỉ đạo chuyển đổi số tại các bộ, ngành, địa phương. Đơn vị chuyên trách về công nghệ thông tin, chuyển đổi số các bộ, ngành, địa phương phát huy vai trò cơ quan thường trực ban chỉ đạo; chủ động tham mưu, đôn đốc, điều phối các cơ quan, đơn vị liên quan triển khai thực hiện các nhiệm vụ chuyển đổi số. Bảo đảm hình thành tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về chuyển đổi số từ Trung ương đến địa phương, thống nhất đầu mối, có sự phân công rõ ràng, cụ thể, xác định rõ nhiệm vụ của các cơ quan chuyên trách về chuyển đổi số các cấp nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả và phát huy vai trò của chuyển đổi số trong phát triển kinh tế - xã hội(19).

Thứ năm, việc nâng cao kỹ năng số cho đội ngũ cán bộ khoa học - công nghệ là yếu tố quan trọng trong quá trình chuyển đổi số. Đồng thời, cần đẩy mạnh phát triển kết cấu hạ tầng đồng bộ, đặc biệt chú trọng đến hạ tầng thông tin và viễn thông nhằm tạo nền tảng vững chắc cho chuyển đổi số, từng bước thúc đẩy Chính phủ số. Bên cạnh đó, việc xây dựng và phát triển dữ liệu số, cùng với đẩy mạnh ứng dụng số hóa, đòi hỏi các bộ, ngành, địa phương phải có chiến lược cụ thể, phù hợp với chiến lược dữ liệu quốc gia. Nguyên tắc thu thập dữ liệu một lần cần được tuân thủ nghiêm ngặt, theo đó, dữ liệu sau khi được cơ quan nhà nước thu thập, quản lý và chia sẻ sẽ không được yêu cầu cung cấp lại từ người dân và doanh nghiệp. Ưu tiên hàng đầu là phát triển các ứng dụng số hóa trong hoạt động của Nhà nước, góp phần đẩy nhanh tiến trình xây dựng chính quyền điện tử hướng đến chính quyền số. Điều này không chỉ nâng cao tính minh bạch trong quản lý nhà nước mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho người dân trong giao dịch với cơ quan nhà nước và tiếp cận dịch vụ công.

Thứ sáu, tiến hành rà soát, sắp xếp lại và huy động hiệu quả các nguồn lực nhằm triển khai các nhiệm vụ ưu tiên trong phát triển chính phủ điện tử. Đồng thời, đẩy mạnh xã hội hóa đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng thông tin, đặc biệt theo mô hình hợp tác công - tư (PPP), nhằm tạo bước đột phá thông qua việc nghiên cứu, lựa chọn mô hình phù hợp và hoàn thiện khung chính sách đầu tư PPP trong lĩnh vực kết cấu hạ tầng nói chung, cũng như hạ tầng thông tin phục vụ xây dựng Chính phủ điện tử nói riêng./.

---------------------

(1) Xem: Hợp nhất Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Bộ Tài chính thành Bộ Tài chính; hợp nhất Bộ Xây dựng và Bộ Giao thông vận tải thành Bộ Xây dựng; hợp nhất Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Bộ Tài nguyên và Môi trường thành Bộ Nông nghiệp và Môi trường; hợp nhất Bộ Thông tin và Truyền thông và Bộ Khoa học và Công nghệ thành Bộ Khoa học và Công nghệ; hợp nhất Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và Bộ Nội vụ thành Bộ Nội vụ…
(2) Xem: Hà Lê Thành Trung: “Chuyển đổi số - Giải pháp đảm bảo hiệu quả hoạt động quản lý hành chính sau khi tinh gọn bộ máy”, Hội thảo khoa học trọng điểm “Tinh gọn bộ máy hành chính đáp ứng yêu cầu kỷ nguyên mới - Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc”, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2025
(3) GS, TS Tô Lâm: Hoàn thiện mô hình tổng thể tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị bảo đảm hoạt động hiệu lực, hiệu quả, khơi thông, giải phóng mọi nguồn lực, tận dụng mọi cơ hội, khai thác tối đa các tiềm năng, thế mạnh để phát triển đất nước nhanh và bền vững”, Tạp chí Cộng sản điện tử, ngày 24-1-2025: https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/xay-dung-he-thong-chinh-tri-tinh-gon-manh/-/2018/1051602/hoan-thien-mo-hinh-tong-the-to-chuc-bo-may-cua-he-thong-chinh-tri-bao-dam-hoat-dong-hieu-luc%2C-hieu-qua%2C-khoi-thong%2C-giai-phong-moi-nguon-luc%2C-tan-dung-moi-co-hoi%2C-khai-thac-toi-da-cac-tiem-nang%2C-the-manh-de-phat-trien-dat-nuoc-nhanh-va-ben-vung*.aspx
(4) Phạm Thị Thanh Trà, “Đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị “tinh - gọn – mạnh – hiệu năng – hiệu lực – hiệu quả” theo tinh thần định hướng của đồng chí GS, TS, Tổng Bí thư Tô Lâm”, Tạp chí Cộng sản, số tháng 1-2025
(5) Bộ Thông tin và Truyền thông:
Cẩm nang Chuyển đổi số, Nxb. Thông tin và Truyền thông, Hà Nội, 2022
(6) Bùi Quang Tuấn, Hà Huy Ngọc (Sách chuyên khảo: Chuyển đổi số - Kinh nghiệm quốc tế và lộ trình cho Việt Nam), Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2023
(7) Xem:
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I
(8) Trần Mai Hương: “Cuộc cách mạng tinh gọn bộ máy: mục tiêu, thách thức và cơ hội”, Chuyên trang pháp luật của Bộ Tư pháp, ngày 22-12-2024, https://vnlaw.moj.gov.vn/cuoc-cach-mang-tinh-gon-bo-may-muc-tieu-thach-thuc-va-co-hoi-123-i2.htm
(9) Nguyễn Thanh Thúy: Chuyển đổi số trong công tác đảng, Tạp chí Xây dựng Đảng, ngày 28-10-2024: https://www.xaydungdang.org.vn/nghi-quyet-va-cuoc-song/chuyen-doi-so-trong-cong-tac-dang-21901
(10) Nguyễn Bá Chiến, Lê Hải Bình: Quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả - Cơ sở lý luận và thực tiễn ở Việt Nam hiện nay, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2024, tr. 188
(11) Nghị quyết số 03/NQ-CP, ngày 9-1-2025, của Chính phủ, ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW; Quyết định số 749/QĐ-TTg, ngày 3-6-2020, của Thủ tướng Chính phủ, phê duyệt Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030; Quyết định số 942/QĐ-TTg, ngày 15-6-2021, của Thủ tướng Chính phủ, phê duyệt Chiến lược phát triển Chính phủ điện tử hướng tới Chính phủ số giai đoạn 2021 - 2025, định hướng đến năm 2030
(12) Nghị quyết số 1294/NQ-UBTVQH15, ngày 15-11-2024, của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, về việc thành lập Ban Chỉ đạo chuyển đổi số của Quốc hội; Nghị quyết số 1343/NQ-UBTVQH15, ngày 31-12-2024, của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, về xây dựng và phát triển Quốc hội số giai đoạn 2024 - 2026, định hướng đến năm 2030
(13) Nghị quyết số 33/2021/QH15, ngày 12-11-2021, của Quốc hội, về tổ chức phiên tòa trực tuyến; Thông tư liên tịch số 05/2021/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BQP-BTP, ngày 15-12-2021, của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ trưởng Bộ Công an, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành tổ chức phiên tòa trực tuyến
(14) Quyết định số 359/QĐ-VKSTC, ngày 2-12-2022, của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, phê duyệt “Quy hoạch phát triển công nghệ thông tin của ngành kiểm sát nhân dân đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”
(15) Ninh Cơ: Thúc đẩy chuyển đổi số để nâng cao hiệu lực, hiệu quả sự lãnh đạo của Đảng, Báo Nhân dân điện tử, ngày 18-1-2025, https://nhandan.vn/thuc-day-chuyen-doi-so-de-nang-cao-hieu-luc-hieu-qua-su-lanh-dao-cua-dang-post856605.html
(16) Báo cáo số 8465/BC-BNV ngày 25-12-2024 của Bộ Nội vụ về tình hình thực hiện công tác cải cách hành chính năm 2024
(17) Nguyễn Mạnh Tuyền: “Kết quả Chuyển đổi số quốc gia năm 2024”, Tạp chí Tổ chức nhà nước, ngày 27-1-2025
(18) Lại Đức Vượng, Nguyễn Thị Sự: “Chính phủ số và giải pháp xây dựng Chính phủ số ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Tổ chức nhà nước, ngày 26-7-2024
(19) Đỗ Thị Tâm: “Cơ hội, thách thức trong xây dựng chính phủ điện tử hướng tới chính phủ số ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Quản lý nhà nước, ngày 27-4-2023

Nguồn: https://tapchicongsan.org.vn/web/guest/nghien-cu/-/2018/1097302/chuyen-doi-so-dap-ung-yeu-cau-sap-xep%2C-tinh-gon-bo-may-trong-he-thong-chinh-tri.aspx


Bình luận (0)

No data
No data

Cùng chủ đề

Cùng chuyên mục

Vòng cung hang động kỳ vĩ ở Tú Làn
Cao nguyên cách Hà Nội 300km có biển mây, thác nước, khách rộn ràng reo vui
Chân Giò Nấu Giả Cầy - Một Món Ăn Đặc Sắc Của Người Dân Bắc Bộ
Những sớm mai yên bình trên dải đất hình chữ S

Cùng tác giả

Di sản

Nhân vật

Doanh nghiệp

No videos available

Thời sự

Hệ thống Chính trị

Địa phương

Sản phẩm