Vietnam.vn - Nền tảng quảng bá Việt Nam

Phát huy vai trò kiểm soát quyền lực nhà nước của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong mô hình chính quyền địa phương hai cấp

TCCS - Trong tiến trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, kiểm soát quyền lực nhà nước được xác định là trụ cột bảo đảm tính dân chủ, pháp quyền và liêm chính của bộ máy công quyền. Kiểm soát quyền lực nhà nước hiệu quả đòi hỏi sự tham gia của nhiều chủ thể, trong đó có Mặt trận Tổ quốc (MTTQ) Việt Nam, thông qua chức năng giám sát, phản biện xã hội. Hiến pháp năm 2013 (sửa đổi, bổ sung năm 2025) đã hiến định việc mô hình tổ chức chính quyền địa phương hai cấp (tỉnh - xã), vì vậy, vai trò của MTTQ Việt Nam trong kiểm soát quyền lực nhà nước ở cấp địa phương càng trở nên quan trọng.

Tạp chí Cộng SảnTạp chí Cộng Sản19/11/2025

Tổng Bí thư Tô Lâm hòa chung niềm vui cùng người dân trong Ngày hội Đại đoàn kết toàn dân tộc tại phường Thượng Cát, thành phố Hà Nội_Ảnh: dangcongsan.vn

Sự cần thiết tăng cường kiểm soát quyền lực nhà nước trong mô hình chính quyền địa phương hai cấp

Khái lược về kiểm soát quyền lực nhà nước

Trong khoa học chính trị, “quyền lực” là một khái niệm trung tâm, được tiếp cận dưới nhiều góc độ. Theo Max Weber - nhà xã hội học, nhà sử học người Đức: quyền lực là “khả năng của một cá nhân hay tổ chức buộc người khác phải tuân theo ý chí của mình, bất kể họ có đồng thuận hay không”(1). Từ góc nhìn luật học, quyền lực được hiểu là năng lực của một chủ thể áp đặt ý chí, điều khiển hành vi và định đoạt kết quả hành động của chủ thể khác trong khuôn khổ xã hội có tổ chức(2).

Nhà nước, xét về bản chất, là thiết chế quyền lực công do nhân dân lập ra qua bầu cử và được nhân dân ủy thác quyền lực chính trị nhằm điều hành, bảo đảm trật tự và thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Quyền lực khi được thể chế hóa bằng hiến pháp và pháp luật, trở thành quyền lực nhà nước - một dạng quyền lực công mang tính pháp lý, được bảo đảm thực thi thông qua hệ thống cơ quan nhà nước và các công cụ cưỡng chế hợp pháp(3). Quyền lực nói chung, quyền lực nhà nước nói riêng có bản chất trung tính, nhưng dễ bị chủ thể nắm quyền lạm dụng nếu thiếu cơ chế kiểm soát hữu hiệu(4).

Kiểm soát quyền lực nhà nước được xem là tổng thể các nguyên tắc, cơ chế và công cụ nhằm giám sát, giới hạn, điều chỉnh việc thực thi quyền lực nhà nước, bảo đảm rằng quyền lực do nhân dân ủy thác được sử dụng đúng mục đích, trong giới hạn và vì lợi ích công(5). Đây không chỉ là vấn đề kỹ thuật tổ chức quyền lực mà còn là biểu hiện của nền quản trị dân chủ và pháp quyền hiện đại, trong đó người dân giữ vai trò trung tâm, là chủ thể tối cao của quyền lực(6).

Nhìn từ phương diện cấu trúc, quyền lực nhà nước có thể được kiểm soát thông qua ba cơ chế cơ bản: (i) Kiểm soát theo chiều ngang - giữa các cơ quan nắm giữ quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, dựa trên nguyên tắc phân công, phối hợp và kiểm soát lẫn nhau; (ii) Kiểm soát theo chiều dọc - giữa trung ương và địa phương, thể hiện qua mối quan hệ giám sát, thanh tra, kiểm tra và giải trình trong hệ thống hành chính; (iii) Kiểm soát từ bên ngoài - được thực hiện bởi các tổ chức xã hội, báo chí, doanh nghiệp, công dân và cộng đồng, với mục tiêu phản biện và thúc đẩy tính minh bạch, trách nhiệm giải trình của bộ máy công quyền(7). Trong ba cơ chế này, kiểm soát quyền lực nhà nước từ bên ngoài (hay từ xã hội) đóng vai trò đặc biệt trên thế giới hiện nay - khi yêu cầu dân chủ hóa đời sống chính trị và nâng cao năng lực giám sát của người dân trở thành xu thế tất yếu của quản trị hiện đại ở mọi quốc gia(8). Cần lưu ý, kiểm soát quyền lực nhà nước từ xã hội không làm suy yếu quyền lực nhà nước, trái lại, giúp tăng cường tính chính danh và hiệu quả của nhà nước, vì quyền lực mà nhà nước sử dụng chỉ có thể được xem là chính đáng khi chủ thể sử dụng quyền lực được giám sát và chịu trách nhiệm trước nhân dân.  

Sự cần thiết phải tăng cường kiểm soát quyền lực nhà nước trong mô hình chính quyền địa phương hai cấp ở nước ta

Ở Việt Nam, tư tưởng về kiểm soát quyền lực đã được khẳng định xuyên suốt trong các văn kiện của Đảng, được Nhà nước thể chế hoá trong Hiến pháp và pháp luật. Nguyên tắc về kiểm soát quyền lực đã được cụ thể hóa trong Văn kiện Đại hội XII (2016), trong đó yêu cầu xác định rõ cơ chế kiểm soát quyền lực nói chung, quyền hạn và trách nhiệm của các cơ quan nhà nước và các cấp chính quyền(9). Đại hội XIII của Đảng tiếp tục nhấn mạnh yêu cầu tăng cường kiểm soát quyền lực nhà nước, nâng cao trách nhiệm giải trình, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực(10). Điều 2 Hiến pháp năm 2013 (sửa đổi, bổ sung năm 2025) nêu rõ: “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp”. Như vậy, có thể khẳng định, trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, kiểm soát quyền lực đã được Đảng và Nhà nước quan tâm. Điều này phù hợp với quan điểm phổ biến của cộng đồng quốc tế xem kiểm soát quyền lực như là công cụ cốt lõi để bảo đảm dân chủ, liêm chính và hiệu quả quản trị công.

Kể từ Hiến pháp năm 2013, MTTQ Việt Nam đã được nhìn nhận như thiết chế giám sát quyền lực trong hệ thống kiểm soát quyền lực nhà nước, cả ở cấp trung ương và địa phương. Vai trò này đã được hiến định tại Điều 9 Hiến pháp năm 2013 (từ trước khi sửa đổi, bổ sung năm 2025), khi Mặt trận được giao thực hiện “giám sát và phản biện xã hội, tham gia xây dựng Đảng và Nhà nước”. Tuy nhiên, việc triển khai quy định trong thực tiễn còn nhiều hạn chế do nhiều nguyên nhân chủ quan, khách quan(11).

Việc tổ chức chính quyền địa phương theo mô hình hai cấp (tỉnh - xã) được Hiến pháp năm 2013 (sửa đổi, bổ sung năm 2025) hiến định là một bước tiến quan trọng trong cải cách thể chế quản trị quốc gia ở nước ta. Mô hình này hướng tới tinh gọn bộ máy, phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, qua đó nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản trị quốc gia. Tuy nhiên, việc rút gọn tầng nấc trung gian hành chính cũng đồng nghĩa với việc giảm bớt một cấp kiểm soát bên trong (cấp huyện), gây tiềm ẩn rủi ro với việc kiểm soát quyền lực nhà nước tại cấp cơ sở nếu không có thiết kế bổ sung từ cơ chế kiểm soát bên ngoài(12). Trong bối cảnh đó, MTTQ Việt Nam cần được củng cố để trở thành thiết chế giám sát quyền lực hiệu quả, góp phần bảo đảm hiệu lực và hiệu quả kiểm soát quyền lực nhà nước, đặc biệt ở cấp địa phương.

Thực trạng vai trò của MTTQ Việt Nam trong kiểm soát quyền lực nhà nước ở cấp địa phương

Cơ sở chính trị, pháp lý và công cụ

Trong hệ thống kiểm soát quyền lực ở Việt Nam, bên cạnh cơ chế kiểm soát bên trong bộ máy nhà nước (kiểm soát giữa các cơ quan thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, kiểm soát tư pháp, giữa chính quyền trung ương và chính quyền địa phương), Hiến pháp và pháp luật thừa nhận vai trò kiểm soát từ xã hội, đặc biệt là thông qua MTTQ Việt Nam. Điều 9 Hiến pháp năm 2013 (sửa đổi, bổ sung năm 2025) quy định: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; giám sát, phản biện xã hội,…”. Ngày 12-12-2013, Bộ Chính trị ban hành Quyết định số 217-QĐ/TW, “Về việc ban hành Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội”, đã chỉ rõ: “Giám sát và phản biện xã hội” là giám sát và phản biện xã hội của MTTQ Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội(13). Tiếp đó, Bộ Chính trị đã ban hành Quyết định số 218-QĐ/TW, về việc MTTQ Việt Nam, các đoàn thể tham gia góp ý xây dựng Đảng, chính quyền(14). Đặc biệt, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “Thực hiện tốt vai trò giám sát, phản biện xã hội, đại diện bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, hội viên, tích cực tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước”(15).

Như vậy, MTTQ Việt Nam với công cụ cốt lõi để tham gia kiểm soát quyền lực nhà nước, là phản biện xã hội và giám sát xã hội, trong đó, phản biện xã hội thể hiện ở việc MTTQ góp ý, thẩm định xã hội đối với dự thảo chủ trương, chính sách, đề án, văn bản quy phạm của Đảng và Nhà nước trước khi ban hành, nhằm phòng ngừa rủi ro chính sách, bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và phù hợp thực tiễn. Trong khi đó, giám sát xã hội thể hiện ở việc MTTQ theo dõi, đánh giá quá trình thực thi chính sách, pháp luật của các cơ quan nhà nước, qua đó phát hiện vi phạm, kiến nghị sửa chữa, xử lý trách nhiệm và cải cách thủ tục. Hai chức năng này tạo ra “vòng phản hồi chính sách” dựa trên bằng chứng, phù hợp với xu thế quốc tế về xây dựng chính quyền mở và trách nhiệm xã hội(16).

Việc hiến định mô hình chính quyền địa phương hai cấp trong Hiến pháp năm 2013 (sửa đổi, bổ sung năm 2025) là bước cải cách thể chế quan trọng, giúp tinh gọn bộ máy, nâng cao hiệu lực điều hành và tiết kiệm chi phí, làm thay đổi đáng kể cấu trúc quyền lực nhà nước ở cấp địa phương. Mô hình này cũng đặt ra thách thức về bảo đảm hiệu quả của cơ chế kiểm soát quyền lực ở cấp địa phương, nhất là trong quan hệ giữa các cơ quan chính quyền địa phương và giữa chính quyền với nhân dân. Trong bối cảnh đó, yêu cầu củng cố cơ chế giám sát của MTTQ Việt Nam và của các chủ thể ngoài nhà nước khác trở nên cấp thiết. MTTQ Việt Nam cần được củng cố để đóng vai trò trung tâm trong cơ chế kiểm soát quyền lực từ bên ngoài bộ máy nhà nước, thông qua việc thực hiện hiệu quả chức năng giám sát, phản biện xã hội đã được hiến định tại Điều 9 Hiến pháp năm 2013. Nhìn rộng hơn khi không còn cấp huyện, cần củng cố vai trò kết nối giữa chính quyền và người dân tại cơ sở của MTTQ và các đoàn thể xã hội nhằm phản ánh kịp thời, đầy đủ ý kiến, nguyện vọng của người dân và giúp cảnh báo sớm nguy cơ vi phạm pháp luật của bộ máy công quyền.  

Những thành tựu, hạn chế

Với tính chất là tổ chức chính trị - xã hội đại diện cho các tầng lớp nhân dân, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, MTTQ Việt Nam đã có những đóng góp quan trọng trong việc kiểm soát quyền lực nhà nước ở cấp địa phương. Thực hiện Quyết định số 217-QĐ/TW và Quyết định số 218-QĐ/TW của Bộ Chính trị (khóa XI) về giám sát và phản biện xã hội, MTTQ Việt Nam đã tiến hành giám sát việc thực thi chính sách, pháp luật của chính quyền địa phương các cấp, thông qua nhiều hình thức. MTTQ Việt Nam còn thường xuyên tổ chức lấy ý kiến của nhân dân góp ý xây dựng các dự thảo luật. Qua quá trình giám sát, MTTQ Việt Nam các cấp đã kịp thời phát hiện những yếu kém, sai sót, thiếu trách nhiệm trong quản lý, điều hành và thực thi nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước, gây phiền hà và thiệt hại cho nhân dân, tổ chức và doanh nghiệp; đồng thời phát hiện những chính sách, pháp luật chưa hợp lý, thiếu khả thi để đưa ra những kiến nghị  sửa đổi, bổ sung phù hợp với thực tiễn(17).

Vai trò phản biện xã hội của MTTQ Việt Nam ngày càng được khẳng định thông qua việc Uỷ ban MTTQ Việt Nam và các tổ chức thành viên các cấp đã tổ chức góp ý, phản ánh, kiến nghị với hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân các cấp về dự thảo các chủ trương, chính sách, đề án liên quan đến quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân và tổ chức, doanh nghiệp. Những phản biện xã hội của MTTQ Việt Nam các cấp trong thời gian qua được dư luận đánh giá cao, nhiều nội dung phản biện được cơ quan chủ trì soạn thảo của ủy ban nhân dân, các sở, ngành tiếp thu trong quá trình chỉnh lý(18). Các tổ chức chính trị - xã hội thuộc MTTQ ở cấp địa phương từng bước nâng cao hiệu quả công tác phản biện xã hội, như Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh... Với vai trò là “tổ chức đại diện tiếng nói, nguyện vọng của trẻ em và giám sát việc thực hiện quyền trẻ em theo ý kiến, nguyện vọng của trẻ em” (Điều 77, Luật Trẻ em năm 2016), Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh đã triển khai hiệu quả các hoạt động thúc đẩy quyền tham gia của trẻ em vào các vấn đề về trẻ em ở cấp địa phương, đã thành lập 27 hội đồng trẻ em cấp tỉnh, 64 hội đồng trẻ em cấp huyện, 26 hội đồng trẻ em cấp xã(19). Cùng với việc tổ chức các kỳ họp định kỳ, nhiều tỉnh, thành phố đã tổ chức hội nghị, gặp mặt, đối thoại trực tiếp giữa hội đồng trẻ em với lãnh đạo tỉnh ủy, hội đồng nhân dân tỉnh, tạo cơ hội cho các em trực tiếp đề xuất các ý kiến, kiến nghị tới các lãnh đạo(20). Một số ý kiến, kiến nghị liên quan đến trẻ em được các đoàn đại biểu Quốc hội, hội đồng nhân dân tỉnh kiến nghị các sở, ngành, các tổ chức đoàn thể quan tâm giải quyết. Mô hình phiên họp giả định “Quốc hội trẻ em” được tổ chức (năm 2023, 2024) mang lại những kết quả thiết thực, là cơ sở để các cấp ban hành chính sách(21).

Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn và các đại biểu dự Phiên họp giả định "Quốc hội trẻ em" lần thứ 2_Ảnh: TTXVN

Tuy nhiên, xét tổng quát, hiệu lực, hiệu quả hoạt động giám sát và phản biện xã hội của MTTQ Việt Nam và một số tổ chức thành viên vẫn chưa thực sự đáp ứng yêu cầu, kỳ vọng của nhân dân, cụ thể như sau:

Một là, phạm vi đối tượng, nội dung giám sát và phản biện xã hội chưa đầy đủ, toàn diện. Trong thực tế hoạt động của MTTQ và các tổ chức thành viên còn xảy ra tình trạng “bỏ trống” việc giám sát một số lĩnh vực quan trọng, như hoạt động quản lý, điều hành của hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân và các cơ quan tư pháp.

Hai là, hoạt động giám sát, phản biện xã hội của MTTQ và các tổ chức thành viên ở nhiều nơi còn mang tính hình thức, chất lượng, hiệu quả chưa cao. Ý kiến phản biện xã hội chưa bao quát hết các dự thảo chính sách, pháp luật, đề án quan trọng của các cơ quan trong bộ máy nhà nước.

Ba là, sự phối hợp giữa MTTQ các cấp với các tổ chức thành viên; giữa chủ thể phản biện (MTTQ) với các cơ quan, tổ chức nhận sự phản biện (ủy ban nhân dân, hội đồng nhân dân các cấp) chưa tốt. Nhiều kiến nghị của MTTQ đối với các cơ quan nhà nước địa phương chưa được tiếp thu và phản hồi kịp thời.

Nguyên nhân dẫn đến những hạn chế, tồn tại nêu trên, bao gồm:

Thứ nhất, vị trí, vai trò giám sát, phản biện xã hội của MTTQ và các tổ chức thành viên đôi lúc còn bị xem nhẹ. Mặt trận và các tổ chức thành viên ở một số địa phương chưa nhận thức đầy đủ về ý nghĩa của hoạt động giám sát, phản biện xã hội, chưa coi trọng quyền giám sát, phản biện của chính mình, dẫn đến hoạt động giám sát, phản biện chỉ gói gọn trong chương trình làm việc của MTTQ, chưa phát huy sức mạnh tổng hợp các tổ chức thành viên; hoạt động giám sát có lúc còn có biểu hiện ngại va chạm.

Thứ hai, khung pháp luật về giám sát và phản biện xã hội của MTTQ Việt Nam và các tổ chức thành viên hiện còn thiếu nhiều nội dung cần thiết, trong khi một số quy định còn ở mức nguyên tắc, chưa được hướng dẫn chi tiết, khiến cho việc áp dụng, tổ chức thực hiện gặp nhiều khó khăn. Cụ thể:

Còn tồn tại khoảng trống về phạm vi và thẩm quyền: Hiến pháp năm 2013 và Luật MTTQ Việt Nam ghi nhận chức năng “giám sát, phản biện xã hội” của MTTQ nhưng chưa xác định rõ phạm vi, đối tượng, giới hạn và thẩm quyền giám sát, phản biện theo từng lĩnh vực (lập pháp, hành pháp, tư pháp; tài chính - ngân sách; quy hoạch - đất đai; dịch vụ công cơ bản..), dẫn đến tình trạng ở mỗi địa phương MTTQ Việt Nam có cách hiểu và vận dụng khác nhau. Vị thế pháp lý và tư cách tham gia giám sát, phản biện của MTTQ trong các quy trình trọng yếu (xây dựng văn bản quy phạm, lập - thẩm định dự án đầu tư công, quyết định chủ trương quy hoạch…) chưa được luật hóa như một chủ thể có quyền tham vấn bắt buộc, dẫn đến tình trạng phản biện diễn ra muộn (cuối quy trình) và mất tính thời sự (“đúng thời điểm”).

Pháp luật chưa quy định quy trình thống nhất về lập kế hoạch, lựa chọn chủ đề, thu thập bằng chứng, phương pháp đánh giá tác động, chuẩn hóa báo cáo, mốc thời hạn phản hồi bắt buộc của cơ quan nhà nước đối với kiến nghị giám sát và ý kiến phản biện của MTTQ. Bên cạnh đó, việc thiếu chuẩn dữ liệu và cơ chế truy cập thông tin của các cơ quan nhà nước cũng làm giảm chất lượng bằng chứng và tính thuyết phục của hoạt động giám sát, phản biện xã hội của MTTQ Việt Nam(22).

Thứ ba, mặc dù Hiến pháp đã hiến định vai trò phản biện xã hội của MTTQ đối với các cơ quan trong bộ máy nhà nước, song việc bảo đảm nguồn lực cán bộ và tài chính cho hoạt động này của MTTQ chưa được coi trọng. Cơ chế tài chính hiện hành chưa bảo đảm để của MTTQ thực hiện hoạt động giám sát, phản biện chủ động, thường xuyên. Giám sát và phản biện xã hội của MTTQ có phạm vi rộng, yêu cầu cao, đòi hỏi phải có cán bộ am hiểu nhiều lĩnh vực, trong khi nguồn lực con người có hạn. Khi chuyển đổi sang mô hình chính quyền địa phương hai cấp, số lượng cán bộ MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội cấp xã còn thiếu, trong khi địa bàn rộng lớn hơn trước, một số đơn vị hành chính mật độ dân số đông, càng làm khó khăn về nguồn nhân lực cho hoạt động giám sát và phản biện xã hội của MTTQ.  

Giải pháp tăng cường vai trò kiểm soát quyền lực nhà nước của MTTQ Việt Nam trong mô hình chính quyền địa phương hai cấp  

Vai trò kiểm soát quyền lực nhà nước của MTTQ Việt Nam và các tổ chức thành viên khi thực hiện mô hình chính quyền địa phương hai cấp là rất cần thiết, cần tập trung thực hiện qua các giải pháp sau đây:

Thứ nhất, tiếp tục củng cố cơ sở hiến định về kiểm soát quyền lực nhà nước

Xét về mặt vĩ mô, trong bối cảnh Hiến pháp tiếp tục được hoàn thiện, Nhà nước cần tiếp tục nghiên cứu bổ sung một điều khoản về “kiểm soát quyền lực” vào Chương I của Hiến pháp để bảo đảm cơ chế bảo đảm quyền lực nhà nước được vận hành hiệu quả hơn. Hiện tại, mặc dù đã có quy định về việc kiểm soát của các cơ quan trung ương trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp (Điều 2), song Hiến pháp năm 2013 chưa có một điều khoản riêng về kiểm soát quyền lực nhà nước. Việc bổ sung một điều khoản riêng về kiểm soát quyền lực vào Hiến pháp mang ý nghĩa về phương diện lập hiến và là cơ sở cho toàn bộ hệ thống pháp luật cụ thể hóa các thiết chế kiểm tra, giám sát và phản biện xã hội. Ngoài những khía cạnh khác, nội dung của điều khoản bổ sung Hiến pháp về “kiểm soát quyền lực” nên khẳng định: “Quyền lực nhà nước phải được kiểm soát chặt chẽ bằng các cơ chế bên trong và bên ngoài bộ máy nhà nước”.

Thứ hai, tiếp tục củng cố vai trò giám sát, phản biện xã hội của MTTQ

Điều 9 Hiến pháp năm 2013 (sửa đổi, bổ sung năm 2025) đã hiến định quyền giám sát, phản biện xã hội của MTTQ Việt Nam. Tuy nhiên, để bảo đảm MTTQ có thể thực hiện tốt vai trò đó, các luật chuyên ngành cần quy định rõ quyền giám sát và phản biện xã hội của MTTQ là một loại hình quyền lực kiểm soát riêng, có tính chất hiến định, đồng thời bổ sung nghĩa vụ của cơ quan nhà nước trong việc trả lời, giải trình và chịu trách nhiệm trước kiến nghị giám sát và ý kiến phản biện của MTTQ. Bên cạnh đó, các luật chuyên ngành cần quy định MTTQ và các tổ chức thành viên có quyền yêu cầu tạm đình chỉ những quyết định hành chính, hành vi hành chính của các cơ quan quản lý nhà nước vi phạm quyền và lợi ích hợp pháp của người dân.

Thứ ba, củng cố cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước địa phương theo chiều ngang

Trong bối cảnh tổ chức chính quyền địa phương vận hành theo mô hình hai cấp, việc phân quyền mạnh hơn cho địa phương đang đi đôi với yêu cầu cấp thiết về thiết lập các cơ chế kiểm soát quyền lực hiệu quả theo phương châm: “Địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm”. Thực chất nội dung này đòi hỏi củng cố cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước theo chiều ngang, bởi nếu cơ chế này yếu, nguy cơ lạm dụng quyền lực ở địa phương rất dễ xảy ra, đặc biệt khi ủy ban nhân dân vừa là cơ quan quản lý hành chính, vừa trực tiếp điều hành các vấn đề về tài chính, công tác cán bộ, đầu tư công, dịch vụ công...

Để củng cố cơ chế kiểm soát quyền lực theo chiều ngang, cần nâng cao vai trò và năng lực của hội đồng nhân dân và MTTQ Việt Nam. Điều này đòi hỏi phải sửa đổi, bổ sung các luật chuyên ngành theo hướng quy định cụ thể hơn về cơ cấu tổ chức của Mặt trận và các đoàn thể xã hội tương ứng theo từng cấp chính quyền (tỉnh, xã), cũng như làm rõ cơ chế phối hợp, tham gia kiểm tra, giám sát, phản biện đối với hoạt động của hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân để lấp những khoảng trống thể chế trong giám sát quyền lực. Bổ sung cơ chế cho phép các tổ chức thực hiện quyền kiến nghị bắt buộc chính quyền địa phương phải lấy ý kiến của cử tri trong quá trình xây dựng các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, các chính sách liên quan đến quyền lợi của nhân dân.

Thứ tư, tăng cường năng lực cho MTTQ Việt Nam ở cấp địa phương

Cần ban hành một luật riêng về giám sát và phản biện xã hội của MTTQ Việt Nam và các tổ chức thành viên nhằm cụ thể hóa các nguyên tắc được ghi nhận trong các nghị quyết của Bộ Chính trị, trong Hiến pháp và Luật MTTQ hiện hành. Luật cần quy định rõ các chủ thể được trao quyền giám sát, phạm vi và hình thức giám sát, quy trình phản biện, trách nhiệm giải trình bắt buộc của các cơ quan nhà nước. Việc luật hóa sẽ khắc phục những hạn chế của tình trạng hoạt động giám sát, phản biện của MTTQ hiện nay.

Cần nâng cao năng lực thực thi và chuyên môn hóa hoạt động giám sát của MTTQ Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội tại cấp cơ sở. Trong thực tiễn, phần lớn cán bộ MTTQ và tổ chức chính trị - xã hội tại xã, phường hiện nay thiếu kỹ năng chuyên môn, thiếu công cụ hỗ trợ và không được đào tạo bài bản về kỹ năng giám sát, phản biện, nhất là giám sát trong lĩnh vực hành chính công. Vì vậy, cần bố trí thêm cán bộ cho khối MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội chuyên trách làm công tác giám sát và phản biện xã hội. Cần thiết lập cơ chế phối hợp giữa MTTQ với các thiết chế giám sát khác trong hệ thống chính trị, như thanh tra nhà nước, kiểm toán nhà nước, hội đồng nhân dân các cấp và xây dựng các chương trình giám sát liên ngành, nhất là trong các lĩnh vực nhạy cảm, như sử dụng ngân sách, đầu tư công, đất đai, quy hoạch, xây dựng...

Tăng cường việc ứng dụng công nghệ số trong công tác giám sát và phản biện xã hội. Điều này đòi hỏi cần xây dựng các nền tảng trực tuyến để tiếp nhận phản ánh, kiến nghị của người dân, cập nhật kết quả giám sát, tình trạng giải quyết, phản hồi của cơ quan nhà nước, thiết lập bản đồ tương tác vấn đề dân sinh nhằm góp phần minh bạch hóa toàn bộ chu trình kiểm soát quyền lực nhà nước của MTTQ và các đoàn thể xã hội.

Cần có cơ chế phân bổ ngân sách nhà nước hợp lý cho các hoạt động giám sát, phản biện xã hội tại cơ sở, gắn với trách nhiệm giải trình, tránh tình trạng “giám sát phụ thuộc vào đối tượng bị giám sát”. Đồng thời, MTTQ được trao quyền đánh giá, đề xuất xử lý trách nhiệm đối với những tập thể, cá nhân không hợp tác, không giải trình hoặc cố tình né tránh phản hồi kiến nghị giám sát, phản biện của MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội.  

Việc tổ chức chính quyền địa phương theo mô hình hai cấp là bước đi quan trọng trong cải cách thể chế, góp phần tinh gọn bộ máy và nâng cao hiệu quả quản trị nhà nước. Trong bối cảnh đó, phải củng cố cơ chế kiểm soát quyền lực từ bên ngoài hệ thống cơ quan nhà nước, đặc biệt là nâng cao vai trò của MTTQ Việt Nam.

Để bảo đảm kiểm soát quyền lực thực chất, ngoài việc hiến định vai trò giám sát, phản biện xã hội của MTTQ Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội, cần ban hành Luật Giám sát và Phản biện xã hội. Hoàn thiện cơ chế phối hợp, nâng cao năng lực cán bộ và ứng dụng công nghệ trong giám sát, phản biện xã hội. Khi thiết lập được cơ chế kiểm soát quyền lực hài hòa giữa Nhà nước và xã hội sẽ góp phần giúp mô hình chính quyền địa phương hai cấp vận hành hiệu quả, đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới./.

---------------------------

(1) Max Weber (Guenther Roth và Claus Wittich dịch): Economy and Society (Tạm dịch: Kinh tế và Xã hội), University of California Press, Berkeley, 1978, tr. 53-54

(2) Robert A. Dahl: Modern Political Analysis (Tạm dịch: Phân tích chính trị hiện đại), 7th ed. Englewood Cliffs, NJ: Prentice Hall, 2003, tr. 34-36

(3) Xem: Nguyễn Đăng Dung: Quyền lực nhà nước và cơ chế kiểm soát quyền lực ở Việt Nam, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2019, tr. 22-24

(4) Joseph Nye: The Future of Power (Tạm dịch: Tương lai của quyền lực), PublicAffairs, New York, 2011, tr. 56

(5) Xem: Trần Ngọc Đường: “Kiểm soát quyền lực nhà nước - Một yêu cầu khách quan trong xây dựng Nhà nước pháp quyền”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, 12 (2020), tr. 3-9

(6) Jon Pierre and B. Guy Peters: Governance, Politics and the State (Tạm dịch: Quản trị, chính trị và nhà nước), Palgrave Macmillan, London, 2000, tr. 14-15

 (7) Mark Bevir: A Theory of Governance (Tạm dịch: Lý thuyết về quản trị), University of California Press, Berkeley, 2013, tr. 61-64

 (8) Xem: Nguyễn Sĩ Dũng: “Kiểm soát quyền lực trong nhà nước pháp quyền”, Tạp chí Cộng sản, 3 (2016), tr. 18-25

(9) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, tr.187

(10) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr. 233-235

(11) Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam: Báo cáo giám sát và phản biện xã hội giai đoạn 2018 – 2023, Hà Nội, 2024

(12) Xem: Nguyễn Hữu Dũng: “Tổ chức chính quyền địa phương hai cấp: Cơ hội và thách thức”, Tạp chí Quản lý Nhà nước, 10 (2024), tr. 21-29.

(13) Bộ Chính trị: Quyết định số 217-QĐ/TW, ngày 12-12-2013, ban hành Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội, Cổng Thông tin điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/he-thong-van-ban/van-ban-cua-dang/quyet-dinh-so-217-qdtw-ngay-12122013-cua-bo-chinh-tri-ban-hanh-quy-che-giam-sat-va-phan-bien-xa-hoi-cua-mat-tran-to-178

(14) Bộ Chính trị: Quyết định 218-QĐ/TW, ngày 12-12-2013, ban hành quy định về việc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền, Cổng Thông tin điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/he-thong-van-ban/van-ban-cua-dang/quyet-dinh-218-qdtw-ngay-12122013-cua-bo-chinh-tri-ban-hanh-quy-dinh-ve-viec-mat-tran-to-quoc-viet-nam-cac-doan-the-chinh-237

(15) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tlđd, tr. 233 - 235

(16) Xem: OECD: Open Government Review: Enhancing Civic Participation and Accountability (Tạm dịch: Đánh giá Chính phủ mở: Tăng cường sự tham gia và trách nhiệm giải trình của công dân), OECD Publishing, Paris, 2022, 44 - 47.

(17), (18), Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam: Báo cáo số 43/BC-MTTQ-BTT, ngày 25-1-2025, về “Kết quả thực hiện công tác giám sát và phản biện xã hội năm 2024”.

 (19) Xem: Ban Bí thư Trung ương Đoàn: Báo cáo về tình hình triển khai Đề án “Đoàn TNCS Hồ Chí Minh thúc đẩy quyền tham gia của trẻ em vào các vấn đề trẻ em giai đoạn 2023 - 2027” và Kết luận của Ban Bí thư Trung ương Đoàn về việc tăng cường triển khai mô hình “Hội đồng trẻ em” giai đoạn 2023 - 2027.

(20) Xem: Hội đồng Đội Trung ương: Báo cáo về tổng kết công tác Đội và phong trào thiếu nhi các năm 2023, 2024.

(21) Xem: Ban Bí thư Trung ương Đoàn: Báo cáo về tổng kết công tác Đoàn và phong trào thanh thiếu nhi các năm học 2023 - 2024 và năm 2024 - 2025. 

(22) OECD: Open Government Review: Enhancing Civic Participation and Accountability (Tạm dịch: Đánh giá Chính phủ mở: Tăng cường sự tham gia và trách nhiệm giải trình của công dân), OECD Publishing, Paris, 2022, 44 - 47.

Nguồn: https://tapchicongsan.org.vn/web/guest/chinh-tri-xay-dung-dang/-/2018/1170602/phat-huy-vai-tro-kiem-soat-quyen-luc-nha-nuoc-cua-mat-tran-to-quoc-viet-nam-trong-mo-hinh-chinh-quyen-dia-phuong-hai-cap.aspx


Bình luận (0)

No data
No data

Cùng chủ đề

Cùng chuyên mục

Cuộc sống 'hai không' của người dân vùng lũ Khánh Hoà trong ngày thứ 5 chống lũ
Lần thứ 4 thấy núi Bà Đen rõ ràng hiếm gặp từ TP.HCM
Mãn nhãn cảnh đẹp Việt Nam trong MV Mục hạ vô nhân của Soobin
Các quán cà phê decor Giáng sinh sớm khiến doanh thu tăng vọt, thu hút đông đảo giới trẻ

Cùng tác giả

Di sản

Nhân vật

Doanh nghiệp

Ngỡ ngàng cảnh sắc đẹp như tranh thủy mặc ở Bến En

Thời sự

Hệ thống Chính trị

Địa phương

Sản phẩm