Vietnam.vn - Nền tảng quảng bá Việt Nam

Mô hình tổ hợp công nghiệp quốc phòng và việc xây dựng tổ hợp công nghiệp quốc phòng ở Việt Nam trong tình hình mới

TCCS - Sự xuất hiện của mô hình tổ hợp công nghiệp quốc phòng gắn liền với các cuộc cách mạng công nghiệp, xu hướng phát triển công nghiệp theo hướng hệ sinh thái và chuỗi giá trị, đặc điểm của các cuộc chiến tranh, xung đột vũ trang hiện đại. Ở Việt Nam, việc xây dựng tổ hợp công nghiệp quốc phòng cần có những giải pháp chính sách tổng thể và thiết thực.

Tạp chí Cộng SảnTạp chí Cộng Sản29/11/2025

Tổng Bí thư Tô Lâm tham quan khu trưng bày sản phẩm của Tập đoàn Viettel tại Đại hội Thi đua Quyết thắng toàn quân lần thứ XI_Ảnh: viettelfamily.com

Sự cần thiết xây dựng tổ hợp công nghiệp quốc phòng

Trên thế giới hiện nay, có nhiều cách hiểu khác nhau về tổ hợp công nghiệp quốc phòng, như là hệ thống liên kết kinh tế - chính trị - quân sự nhằm tác động đến quá trình ra quyết định của chính phủ(1); hoặc hệ thống liên kết của các tổ chức, doanh nghiệp trong phát triển công nghiệp quốc phòng(2), trong đó doanh nghiệp công nghiệp quốc phòng là cốt lõi của hệ thống(3).

Ở Việt Nam, Luật Công nghiệp quốc phòng, an ninh và động viên công nghiệp năm 2024 quy định, tổ hợp công nghiệp quốc phòng là hệ thống liên kết, hợp tác của cơ sở công nghiệp quốc phòng, tổ chức, doanh nghiệp…, do cơ sở công nghiệp quốc phòng nòng cốt làm hạt nhân để hình thành chuỗi giá trị tạo ra sản phẩm quốc phòng theo nhóm, chuyên ngành sản phẩm vũ khí, trang bị kỹ thuật (khoản 1, Điều 42). Khái niệm tổ hợp công nghiệp quốc phòng này phù hợp với xu thế phát triển công nghiệp nói chung, công nghiệp quốc phòng nói riêng, phát triển theo mạng lưới tổ hợp và chuỗi giá trị; cho phép nhìn nhận tổ hợp công nghiệp quốc phòng như là một hệ sinh thái doanh nghiệp - một mạng lưới các tổ chức, cá thể cùng phát triển năng lực, vị thế và liên kết đầu tư để tạo ra giá trị gia tăng hoặc cải thiện hiệu quả hoạt động(4). Trong nghiên cứu về xây dựng hạt nhân tổ hợp công nghiệp quốc phòng công nghệ cao ở Việt Nam, tính mô-đun của sản phẩm và nhu cầu hợp tác đủ lớn của tổ chức, doanh nghiệp trên thị trường là cơ sở hình thành hệ sinh thái doanh nghiệp(5). Có thể thấy, sự phát triển của tổ hợp công nghiệp quốc phòng gắn liền với sự phát triển của các hệ thống vũ khí, trang bị kỹ thuật phức tạp, được cấu thành bởi nhiều mô-đun và thành phần lắp ghép với nhau để tạo ra sản phẩm hoàn chỉnh.

Ngành công nghiệp quốc phòng có lịch sử phát triển qua nhiều thế kỷ, với trình độ khác nhau (từ sản xuất cung, tên, vũ khí thô sơ; súng, đạn; cho đến các hệ thống vũ khí hiện đại, tinh vi và phức tạp theo sự phát triển của các cuộc cách mạng công nghiệp). Hiện nay, sự hình thành các tổ hợp công nghiệp quốc phòng hiện đại đã góp phần quan trọng đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ nghiên cứu, sản xuất quốc phòng, cụ thể như sau:

Một là, tổ hợp công nghiệp quốc phòng góp phần giải quyết mâu thuẫn giữa lợi ích ngắn hạn và lợi ích dài hạn trong nghiên cứu, sản xuất công nghiệp nói chung, nghiên cứu, sản xuất quốc phòng nói riêng. Doanh nghiệp luôn phải chịu áp lực cạnh tranh trên thị trường về chất lượng, giá cả và thời gian giới thiệu sản phẩm ra thị trường. Đối với các dự án nghiên cứu và phát triển (R&D), việc chậm đưa sản phẩm ra thị trường có thể làm cho doanh nghiệp mất doanh thu do quãng đời sản phẩm ngắn hơn, doanh thu tăng trưởng thấp và thị phần tiềm năng giảm(6). Đối với doanh nghiệp công nghệ, đầu tư cho R&D để phát triển công nghệ/sản phẩm mới thường gặp rủi ro, phần lớn kết quả nghiên cứu không đến được thị trường(7); hơn nữa, đầu tư cho R&D là hoạt động tốn kém, mất nhiều thời gian, phụ thuộc vào lĩnh vực công nghệ cụ thể. Trong lĩnh vực năng lượng, thời gian để chuyển hóa một sáng chế thành sản phẩm thương mại thành công trên thị trường, bình quân có thể mất đến 32 năm(8); trong lĩnh vực dược phẩm, thời gian từ nghiên cứu phát hiện phân tử cho đến khi tạo ra sản phẩm được cơ quan có thẩm quyền cấp phép ra thị trường, có thể mất từ 10 đến 15 năm(9).

Đối với doanh nghiệp công nghiệp quốc phòng, nghiên cứu, sản xuất vũ khí, trang bị kỹ thuật, nhất là vũ khí, trang bị kỹ thuật công nghệ cao, có ý nghĩa chiến lược, thời gian từ nghiên cứu, thiết kế đến thương mại hóa (hay đưa vào trang bị cho quân đội) thường phải trải qua thời gian dài. Chương trình nghiên cứu, sản xuất máy bay chiến đấu thế hệ thứ năm Su-57 của Nga được bắt đầu từ năm 2002; chuyến bay thử nghiệm đầu tiên được thực hiện vào năm 2010; và chính thức sản xuất để đưa vào trang bị cho Quân đội Liên bang Nga vào năm 2019(10). Chương trình nghiên cứu, sản xuất máy bay chiến đấu F-35 của Tập đoàn công nghiệp quốc phòng Lockheed Martin (Hoa Kỳ) được bắt đầu từ năm 1995; được Lockheed Martin và Boeing trình diễn thiết kế vào năm 1997; sau đó, một phiên bản của F-35 là X-35 hoàn thành chuyến bay thử nghiệm lần thứ nhất vào năm 2000; đến năm 2011, chiếc máy bay F-35 đầu tiên được cung cấp cho Hải quân Hoa Kỳ(11). Như vậy, với chương trình nghiên cứu, sản xuất máy bay chiến đấu thế hệ thứ 5, quãng thời gian từ nghiên cứu, thiết kế, đến sản xuất, đưa vào trang bị cho quân đội của Liên bang Nga và Hoa Kỳ mất gần 2 thập niên.

Có thể thấy, để duy trì vị thế và năng lực cạnh tranh trên thị trường, doanh nghiệp công nghệ trong cả hai khu vực quân sự và dân sinh luôn phải đối mặt với việc lựa chọn giữa: (1) đầu tư vào nghiên cứu, sản xuất ngắn hạn, hầu như không có rủi ro, bảo đảm doanh thu, lợi nhuận ngắn hạn, thường xuyên; (2) đầu tư vào nghiên cứu, sản xuất dài hạn, tạo đột phá trong tương lai, bảo đảm vị thế phát triển bền vững trên thị trường, song khả năng rủi ro cao. Để có sự hài hòa giữa lợi ích ngắn hạn và lợi ích dài hạn, doanh nghiệp công nghệ quy mô lớn thường dành một tỷ trọng ngân sách R&D nhất định để đầu tư vào nghiên cứu cơ bản dài hạn, nâng cao năng lực cạnh tranh; tập trung phát triển một số công nghệ lõi, công nghệ nền có tính then chốt đối với doanh nghiệp. Trong khi đó, hầu hết doanh nghiệp nhỏ và vừa không đầu tư vào các chương trình R&D dài hạn.

Mô hình tổ hợp công nghiệp quốc phòng hay mô hình hệ sinh thái doanh nghiệp, với sự liên kết, hợp tác của hạt nhân với tổ chức, doanh nghiệp bên trong và bên ngoài quân đội, góp phần xử lý mâu thuẫn giữa quyết định đầu tư ngắn hạn và đầu tư dài hạn; huy động được nguồn lực bổ sung, ưu thế của khu vực dân sự để nghiên cứu, phát triển, sản xuất hệ thống vũ khí, trang bị kỹ thuật tiên tiến, hiện đại(12). Do huy động được nguồn lực từ các thành viên trong tổ hợp công nghiệp quốc phòng, doanh nghiệp hạt nhân có khả năng đầu tư nguồn lực lớn hơn vào các dự án R&D dài hạn, tạo ra nền tảng sản phẩm/công nghệ sử dụng chung cho hệ sinh thái. Dựa trên nền tảng do doanh nghiệp hạt nhân phát triển, thành viên tham gia có thể nghiên cứu, phát triển công nghệ/sản phẩm phái sinh với nguồn đầu tư thấp hơn so với khi thực hiện đơn lẻ, từ đó sử dụng nguồn lực hiệu quả hơn.

Hai là, tổ hợp công nghiệp quốc phòng góp phần đáp ứng nhu cầu và tăng cường khả năng tự chủ về vũ khí, trang bị kỹ thuật công nghệ cao phục vụ phòng thủ quốc gia. Hầu hết các quốc gia trên thế giới đều có nhu cầu tự chủ về vũ khí, trang bị kỹ thuật công nghệ cao, song không nhiều quốc gia công nghiệp phát triển có khả năng xây dựng được nền công nghiệp quốc phòng tự chủ. Vũ khí, trang bị kỹ thuật công nghệ cao, nhất là vũ khí, trang bị kỹ thuật có ý nghĩa chiến lược là hệ thống vũ khí hiện đại, tích hợp hệ thống của nhiều mô-đun, linh kiện và thiết bị hiện đại. Với mức độ hiện đại và tính tích hợp của hệ thống vũ khí, trang bị kỹ thuật có ý nghĩa chiến lược, doanh nghiệp đơn lẻ thường không đủ năng lực và nguồn lực để thực hiện toàn trình hoạt động nghiên cứu, phát triển và sản xuất sản phẩm hoàn chỉnh. Chẳng hạn, để tạo ra sản phẩm hoàn chỉnh máy bay chiến đấu F-35, Tập đoàn công nghiệp quốc phòng Lockheed Martin phải liên kết, hợp tác với hơn 1.300 nhà cung cấp đến từ 9 quốc gia và 48 bang của Hoa Kỳ(13).

Những năm gần đây, với sự phát triển mạnh mẽ về khoa học và công nghệ, nhất là dưới tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, hệ thống vũ khí, trang bị kỹ thuật ngày càng trở nên tinh xảo, hiện đại, khiến cho mô hình sản xuất truyền thống theo các doanh nghiệp đơn lẻ, thiếu liên kết, dần không còn phù hợp. Mô hình tổ hợp công nghiệp quốc phòng ra đời đã góp phần huy động được nguồn lực lớn cho phát triển công nghiệp quốc phòng, với sự tham gia của số lượng lớn các tổ chức, doanh nghiệp trong khu vực dân sinh. Trong mô hình này, mỗi doanh nghiệp được chuyên môn hóa để thực hiện một hoặc một vài nhiệm vụ cụ thể, góp phần nâng cao trình độ chuyên môn hóa của các thành viên. Sự cộng lực của các thành viên trong mô hình tổ hợp công nghiệp quốc phòng còn giúp thúc đẩy quá trình học hỏi, đổi mới sáng tạo, góp phần đẩy nhanh tiến độ tự chủ về công nghiệp quốc phòng.

Ba là, tổ hợp công nghiệp quốc phòng góp phần giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa tính “đóng” (giữ bí mật, không xuất khẩu) và tính “mở” (huy động nguồn lực dân sinh, xuất khẩu) trong nghiên cứu, sản xuất vũ khí, trang bị kỹ thuật công nghệ cao. Trên bình diện quốc gia và quốc tế, nhiều quốc gia đã tham gia vào các thỏa thuận kiểm soát xuất khẩu đa phương và song phương, đồng thời kiểm soát chặt chẽ người dùng cuối, danh mục vũ khí, trang bị kỹ thuật và công nghệ được phép chuyển giao trong hoạt động xuất khẩu vũ khí. Chẳng hạn, Hàn Quốc ngoài việc tham gia vào các cơ chế kiểm soát xuất khẩu quốc tế nhằm bảo vệ an ninh quốc gia, còn kiểm soát việc xuất khẩu “công nghệ lõi quốc gia” theo Đạo luật Phòng ngừa tiết lộ và bảo vệ công nghệ công nghiệp (Act on Prevention of Divulgence and Protection of Industrial Technology); Anh xây dựng Tiêu chí cấp phép xuất khẩu vũ khí quốc gia (National Arms Export Licensing Criteria); Hoa Kỳ, ngoài việc tham gia các cam kết đa phương, còn phối hợp với nhiều quốc gia trong việc hạn chế xuất khẩu vũ khí, trang bị kỹ thuật sang một số quốc gia và vùng lãnh thổ cụ thể.

Mô hình tổ hợp công nghiệp quốc phòng với đặc điểm là hợp tác công - tư, có khả năng bảo đảm an ninh, bí mật quốc gia, đồng thời vẫn có thể huy động nguồn lực (công nghệ, tài chính, chuyên gia) của khu vực tư nhân, quốc tế. Mô hình này có cấu trúc linh hoạt, dưới sự điều phối của doanh nghiệp hạt nhân nắm giữ nền tảng sản phẩm, với một số công nghệ và mô-đun then chốt, có ý nghĩa chiến lược trong việc tạo ra sản phẩm hoàn chỉnh; các thành viên khác của tổ hợp này nghiên cứu, sản xuất các mô-đun phụ trợ hoặc thiết bị/linh kiện không then chốt. Đối với trường hợp sản xuất máy bay F-35, Tập đoàn công nghiệp quốc phòng Lockheed Martin chỉ nắm giữ tích hợp hệ thống, lắp ráp sản phẩm hoàn chỉnh, sản xuất một vài mô-đun then chốt, những mô-đun còn lại do các doanh nghiệp khác thực hiện, do đó, vừa bảo đảm được ưu thế của mô hình mở, đổi mới sáng tạo, vừa giữ được các bí mật cần thiết.

Một số gợi mở chính sách đối với xây dựng, phát triển tổ hợp công nghiệp quốc phòng ở Việt Nam

Việc xây dựng mô hình tổ hợp công nghiệp quốc phòng ở nước ta hiện nay là đòi hỏi tất yếu khách quan để phát triển nền công nghiệp quốc phòng tự cường, hiện đại, lưỡng dụng, là mũi nhọn của công nghiệp quốc gia, góp phần thiết thực đáp ứng yêu cầu bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong tình hình mới. Để xây dựng, phát triển thành công mô hình này, cần một số chính sách cụ thể như sau:

Thứ nhất, Nhà nước cần xây dựng một số tổ chức khoa học và công nghệ công lập đẳng cấp quốc tế, tập trung vào nghiên cứu cơ bản để phát triển công nghệ chiến lược, công nghệ nền, công nghệ lõi ở mức độ sẵn sàng công nghệ thấp(14), phục vụ doanh nghiệp và nhu cầu của các ngành công nghiệp chiến lược. Đồng thời, cần hướng tới hình thành hệ thống tổ chức R&D đẳng cấp quốc tế ở mọi cấp độ: quốc gia, bộ, ngành, địa phương và doanh nghiệp, trong công nghiệp quốc phòng và các ngành công nghiệp chiến lược khác.

Nghiên cứu và phát triển công nghệ mới, công nghệ chiến lược tốn kém nhiều thời gian, chi phí và mức độ rủi ro cao. Trong khi đó, doanh nghiệp hạt nhân và doanh nghiệp thành viên của tổ hợp công nghiệp quốc phòng phải tập trung nguồn lực để thực hiện mục tiêu doanh thu, lợi nhuận, bảo đảm sự tồn tại và phát triển trên thị trường. Sự tham gia của tổ chức R&D công lập ở giai đoạn sẵn sàng công nghệ thấp (từ TRL1 đến TRL3) trong nghiên cứu, phát triển, sản xuất vũ khí, trang bị kỹ thuật công nghệ cao sẽ giúp rút ngắn thời gian; đồng thời, tạo sự chia sẻ rủi ro giữa Nhà nước và doanh nghiệp. Theo đó, Viện Khoa học và công nghệ quân sự, Học viện Kỹ thuật quân sự và một số tổ chức R&D công lập khác cần được nâng cấp và giao chức năng, nhiệm vụ thực hiện nghiên cứu cơ bản dài hạn, phối hợp với tổ hợp công nghiệp quốc phòng trong nghiên cứu, phát triển, sản xuất vũ khí, trang bị kỹ thuật công nghệ cao.

Nhiều sản phẩm tự nghiên cứu, chế tạo của Viettel khẳng định bước tiến mới của công nghiệp quốc phòng Việt Nam_Ảnh: vietnam.vnanet.vn

Thứ hai, xây dựng các chương trình R&D dài hạn trong phát triển một số công nghệ chiến lược phục vụ công nghiệp quốc phòng, công nghiệp chiến lược và hỗ trợ ngân sách nhà nước cho thực hiện các chương trình này.

Kinh nghiệm của các nước công nghiệp phát triển cho thấy, họ thường đưa ra dự báo, xây dựng chiến lược, lập kế hoạch phát triển dài hạn đối với việc phát triển một số công nghệ then chốt. Chẳng hạn, các quốc gia thuộc Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) đã đưa ra dự báo đối với 40 công nghệ then chốt (key technologies) trong giai đoạn 2016 - 2040, thuộc 4 lĩnh vực: công nghệ số, công nghệ sinh học, vật liệu tiên tiến, công nghệ năng lượng và môi trường(15). Hoa Kỳ và một số quốc gia thuộc Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) xác định chiến lược, chương trình hoặc kế hoạch R&D dài hạn để phát triển một số công nghệ quân sự then chốt trong giai đoạn 2023 - 2045, như: trí tuệ nhân tạo (AI), công nghệ lượng tử (Quantum Technologies), hệ thống tự điều khiển (Autonomous Systems), công nghệ năng lượng định hướng (Directed Energy Technologies), công nghệ siêu vượt âm (Hypersonic Technologies) và một số công nghệ khác(16). Trong thời gian tới, Việt Nam cần xây dựng các chương trình R&D dài hạn trong phát triển một số công nghệ chiến lược phục vụ chế tạo, sản xuất vũ khí, trang bị kỹ thuật công nghệ cao, có ý nghĩa chiến lược. Đồng thời, tăng đầu tư ngân sách nhà nước về khoa học và công nghệ cho R&D quốc phòng; hỗ trợ doanh nghiệp hạt nhân của tổ hợp công nghiệp quốc phòng xây dựng, thực hiện các chương trình R&D dài hạn phục vụ chế tạo, sản xuất vũ khí, trang bị kỹ thuật công nghệ cao, có ý nghĩa chiến lược.

Thứ ba, không áp dụng tiêu chí bảo toàn, phát triển vốn đối với phần vốn đầu tư cho các hoạt động R&D và đổi mới công nghệ của doanh nghiệp nhà nước; cho phép loại trừ các yếu tố tác động do sử dụng nguồn lực của doanh nghiệp cho hoạt động R&D và đổi mới công nghệ trong đánh giá hiệu quả và xếp loại các doanh nghiệp này.

Luật Công nghiệp quốc phòng, an ninh và động viên công nghiệp năm 2024 đã có quy định cụ thể về chính sách này đối với cơ sở công nghiệp quốc phòng nòng cốt trong nghiên cứu, sản xuất vũ khí, trang bị kỹ thuật có ý nghĩa chiến lược (khoản 3, Điều 63). Tuy nhiên, cần mở rộng chính sách này đối với tất cả các doanh nghiệp nhà nước thực hiện hoạt động R&D và đổi mới công nghệ. Qua đó, khuyến khích doanh nghiệp nhà nước gia tăng đầu tư vào hoạt động R&D, đổi mới công nghệ, góp phần đẩy nhanh quá trình tự chủ của công nghiệp quốc phòng; thực hiện thắng lợi mục tiêu đề ra trong Chiến lược phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đến năm 2030 là đóng góp của xã hội cho nghiên cứu khoa học và công nghiệp chiếm tỷ lệ 65% - 70%.

Thứ tư, khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào R&D thông qua chính sách/chương trình thuế - tín dụng (tax-credit program(17)) đối với hoạt động R&D của doanh nghiệp nói chung, doanh nghiệp tham gia tổ hợp công nghiệp quốc phòng nói riêng.

Theo quy định của Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2025, doanh nghiệp được trích tối đa 20% số thu nhập tính thuế hằng năm để lập quỹ phát triển khoa học và công nghệ của doanh nghiệp. Trên thực tế, doanh nghiệp nhỏ và vừa ở nước ta không đủ nguồn lực và động lực để lập quỹ này. Đối với tổ hợp công nghiệp quốc phòng, trừ doanh nghiệp hạt nhân, doanh nghiệp thành viên của tổ hợp công nghiệp quốc phòng cũng không đủ nguồn lực và động lực để lập quỹ. Tuy nhiên, doanh nghiệp nhỏ và vừa vẫn có nhu cầu thực hiện hoạt động R&D, đổi mới công nghệ. Chính sách thuế - tín dụng giúp doanh nghiệp không thành lập quỹ phát triển khoa học và công nghệ cũng có thể nhận lại một phần kinh phí đầu tư cho R&D, đổi mới công nghệ nhờ việc Nhà nước giảm trừ thuế thu nhập doanh nghiệp. Một nghiên cứu quốc tế đã đưa ra tính toán rằng, cứ mỗi USD thuế - tín dụng của nhà nước dẫn tới việc doanh nghiệp đầu tư 4USD cho R&D(18). Đây là một trong những lý do quan trọng làm cho đầu tư vào R&D của khu vực doanh nghiệp lớn hơn rất nhiều so với đầu tư từ ngân sách nhà nước tại các quốc gia thuộc OECD.

Thứ năm, tăng cường quản lý nhà nước đối với tổ hợp công nghiệp quốc phòng trên cơ sở tập trung quản lý và phân quyền mạnh cho doanh nghiệp hạt nhân trong tổ hợp.

Khi tổ hợp công nghiệp quốc phòng phát triển và ngày càng mở rộng, số lượng doanh nghiệp dân sinh tham gia ngày càng lớn, phân chia thành nhiều lớp khác nhau với sự hợp tác, liên kết rất phức tạp. Việc tập trung quản lý nhà nước vào doanh nghiệp hạt nhân - cơ sở công nghiệp quốc phòng nòng cốt do Bộ Quốc phòng quản lý, tạo ra độ “mở” phù hợp và giữ được một số nội dung cần “đóng” theo đặc thù của ngành công nghiệp quốc phòng. Hiện nay, mô hình lãnh đạo tuyệt đối, toàn diện của Đảng ủy, Ban Thường vụ Đảng ủy Tập đoàn Công nghiệp - Viễn thông Quân đội là một điển hình cần được xem xét áp dụng trong lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng, phát triển tổ hợp công nghiệp quốc phòng ở nước ta. Ngoài ra, để khuyến khích sự tham gia của khu vực ngoài nhà nước vào phát triển công nghiệp quốc phòng mà vẫn bảo đảm được tính bảo mật cần thiết, Nhà nước có thể ban hành danh mục sản phẩm/công nghệ quốc phòng cho phép sự tham gia của khu vực tư nhân; đồng thời, giao trách nhiệm, phân cấp cho doanh nghiệp hạt nhân của tổ hợp công nghiệp quốc phòng trong thực hiện mở rộng nghiên cứu, sản xuất và bảo vệ bí mật quốc gia./.

-----------------------

(1) Xem: Phạm Hoài Nam, Nguyễn Đình Chiến, Nguyễn Mạnh Hải, Nguyễn Quang Tuấn: “Tổ hợp công nghiệp quốc phòng và gợi mở hướng nghiên cứu về mô hình tổ hợp công nghiệp quốc phòng công nghệ cao ở Việt Nam”, Tạp chí Cộng sản, số 1048 (tháng 10-2024)

(2) Xem: Nureev, R.M & Busygin, E.G: “Economic sanctions as a factor of modernizing of Russian defense industry complex” (Tạm dịch: Cấm vận kinh tế như một yếu tố hiện đại hóa tổ hợp công nghiệp quốc phòng Nga), Journal of International Studies, vol.9(3), 2017, p. 98 - 11; Weber, N. Rachel: “Military - Industrial Complex” (Tạm dịch: Tổ hợp công nghiệp quốc phòng), 2018, https://www.history.com/topics/21st-century/military-industrial-complex

(3) Dunne J. Paul & Elisabeth Skons: “The changing military-industrial complex” (Tạm dịch: Sự thay đổi tổ hợp công nghiệp quốc phòng), 2010, http://www.researchgate.net

(4) Xem: Moore James Frederick: “Predator and prey: A new ecology of competition” (Tạm dịch: Kẻ săn mồi và con mồi: Một sự cạnh tranh sinh thái mới), Harvard Business Review, vol.71(3), 1993, p. 75 - 86

(5) Xem: Nguyễn Đình Chiến, Nguyễn Mạnh Hải, Nguyễn Quang Tuấn: “Xây dựng hạt nhân tổ hợp công nghiệp quốc phòng công nghệ cao hiện nay ở Việt Nam”, Tạp chí Lý luận Chính trị, số 563 (tháng 1-2025)

(6) Xem: “The cost of time in R&D projects?” (Tạm dịch: Chi phí thời gian đối với các dự án nghiên cứu và phát triển), R&D Today, https://www.rndtoday.co.uk/latest-news/the-cost-of-time-in-rd-projects/

(7) Xem: Nguyễn Quang Tuấn: Chính sách thúc đẩy thương mại hóa kết quả nghiên cứu và phát triển ở Việt Nam, Nxb. Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội, 2017. Trong đó, tác giả cho biết tỷ lệ thương mại hóa chính thức kết quả thực hiện nhiệm vụ R&D cấp quốc gia đã nghiệm thu giai đoạn 2006 - 2015 đạt từ 11% đến 12%

(8) Xem: Gross Robert, Richard Hanna, Ajay Gambhir, Philip Heptonstall, Jamie Speirs: “How long does innovation and commercialisation in the energy sectors take? Historical case studies of the timescale from invention to widespread commercialisation in energy supply and end use technology” (Tạm dịch: Cần bao nhiêu thời gian cho đổi mới sáng tạo và thương mại hóa trong lĩnh vực năng lượng), Energy Policy, vol. 123, 2018, p. 682 - 699

(9) Xem: Bikash Chatterjee, Richard Steiner, Goldi Kaul: “Industry perspective - What does industry need to accelerate drug product and process development” (Tạm dịch: Triển vọng công nghiệp - Công nghiệp cần gì để đẩy nhanh phát triển quy trình và sản phẩm dược), Pharmaceutical Research, vol. 47, 2023, p. 7 - 11

(10) Xem: “Famous Russian Aircraft: “Sukhoi Su-57”” (Tạm dịch: Máy bay Nga nổi tiếng: “Sukhoi Su-57”), https://www.amazon.com/Sukhoi-57-Famous-Russian-Aircraft/dp/191080993

(11) Xem: “History 20 years of the F-35” (Tạm dịch: Lịch sử 20 năm của máy bay F-35), About F-35, https://www.f35.com/f35/about/history.html

(12) Xem: Xem: Phạm Hoài Nam, Nguyễn Đình Chiến, Nguyễn Mạnh Hải, Nguyễn Quang Tuấn: “Tổ hợp công nghiệp quốc phòng và gợi mở hướng nghiên cứu về mô hình tổ hợp công nghiệp quốc phòng công nghệ cao ở Việt Nam”, Tạp chí Cộng sản, Tlđd

(13) Xem: Levinson Robert: “The F-35S global supply chain, Businessweek” (Tạm dịch: Chuỗi cung ứng toàn cầu của F-35), Bloomberg, 2011, https://www.bloomberg.com/news/articles/2011-09-01/the-f-35-s-global-supply-chain

(14) Mức độ sẵn sàng công nghệ (Technology Readiness Level - TRL) là phương pháp đánh giá mức độ thành thục của một công nghệ cụ thể. TRL được Cơ quan Hàng không - Vũ trụ Hoa Kỳ (NASA) chia thành 9 bậc, trong đó TRL1-3 là giai đoạn công nghệ ở mức đưa ra các nguyên lý, chứng minh khái niệm; TRL4-6 là công nghệ trưởng thành ở mức độ thử nghiệm thành công từ phòng thí nghiệm cho đến môi trường thực nghiệm thực tế; TRL7-9 là mức độ công nghệ trưởng thành từ sản phẩm mẫu trình diễn thành công trong môi trường thực cho đến vận hành thành công. Thông thường, quá trình nghiên cứu, thử nghiệm công nghệ ở mức độ từ TRL1 đến TRL9 mất rất nhiều thời gian, vì vậy, công nghệ ở mức độ từ TRL1 đến TRL3 thường do các viện nghiên cứu, trường đại học tổ chức thực hiện.

Xem: “Technology Readiness Levels” (Tạm dịch: Các mức độ sẵn sàng công nghệ”, https://www.nasa.gov/directorates/somd/space-communications-navigation-program/technology-readiness-levels/

(15) Xem: OECD: “An OECD horizon scan of megatrends and technology trends in the context of future research policy” (Tạm dịch: Dự báo của OECD về các xu hướng lớn và xu hướng công nghệ trong bối cảnh chính sách nghiên cứu tương lai), https://ufm.dk/en/publications/2016/files/an-oecd-horizon-scan-of-megatrends-and-technology-trends-in-the-context-of-future-research-policy.pdf

(16) Xem: NATO: “Science & technology trends 2023 - 2045” (Tạm dịch: Những xu hướng khoa học và công nghệ 2023 - 2045), https://www.nato.int/nato_static_fl2014/assets/pdf/2023/3/pdf/stt23-vol2.pdf

(17) Đây là chính sách được áp dụng ở nhiều quốc gia thuộc OECD và một số quốc gia đang phát triển như Indonesia và Malaysia. Theo đó, ở Hoa Kỳ, doanh nghiệp có thể nhận được từ 12 đến 16 cents đối với mỗi USD đầu tư cho R&D từ việc giảm thuế thu nhập doanh nghiệp. Xem: https://www.kbkg.com/research-tax-credits

(18) Xem: Russell Thomson: “The effectiveness of R&D tax credit” (Tạm dịch: Hiệu quả của thuế tín dụng R&D), The Review of Economics and Statistics, vol.99(3), p. 544 - 549

Nguồn: https://tapchicongsan.org.vn/web/guest/quoc-phong-an-ninh-oi-ngoai1/-/2018/1175602/mo-hinh-to-hop-cong-nghiep-quoc-phong-va-viec-xay-dung-to-hop-cong-nghiep-quoc-phong-o-viet-nam-trong-tinh-hinh-moi.aspx


Bình luận (0)

No data
No data

Cùng chủ đề

Cùng chuyên mục

Thiếu nữ Hà Nội "lên đồ" xinh lung linh cho mùa Giáng sinh
Bừng sáng sau bão lũ, làng hoa cúc Tết tại Gia Lai mong đừng cúp điện để cứu cây
Thủ phủ mai vàng miền Trung thất thu nặng sau thiên tai kép
Quán cà phê Hà Nội gây sốt với khung cảnh Noel như trời Âu

Cùng tác giả

Di sản

Nhân vật

Doanh nghiệp

Bình minh đẹp rực rỡ trên các vùng biển Việt Nam

Thời sự

Hệ thống Chính trị

Địa phương

Sản phẩm