Vai trò của khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đối với phát triển nhanh lực lượng sản xuất hiện đại và hoàn thiện quan hệ sản xuất
Lực lượng sản xuất (LLSX) và quan hệ sản xuất (QHSX) là hai yếu tố cốt lõi trong lý thuyết kinh tế mác-xít. Lực lượng sản xuất phản ánh trình độ phát triển của nền kinh tế, trong khi QHSX biểu thị cách thức tổ chức và phân phối các nguồn lực sản xuất. Chủ nghĩa Mác - Lê-nin cũng chỉ rõ, nền kinh tế của quốc gia chỉ phát triển nhanh và bền vững khi QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX; ngược lại, khi 2 yếu tố này mâu thuẫn sẽ kìm hãm nhau, dẫn đến khủng hoảng kinh tế - xã hội. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế và Cách mạng công nghiệp lần thứ tư hiện nay, khoa học (KH), công nghệ (CN) và đổi mới sáng tạo (ĐMST) đã và đang tạo ra những thay đổi lớn trong cả LLSX và QHSX, trở thành những yếu tố có vai trò quan trọng đặc biệt, không thể thiếu trong sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia.
Thứ nhất, KH, CN và ĐMST là động lực chính thúc đẩy LLXS phát triển.
Lực lượng sản xuất là sự kết hợp giữa người lao động với tư liệu sản xuất, trước hết là công cụ sản xuất nhằm tạo ra một sức sản xuất vật chất nhất định. Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo là phương tiện, mục tiêu và động lực thúc đẩy sự phát triển LLSX trên tất cả các phương diện cấu thành của LLSX.
Trước hết, KH, CN và CĐS thúc đẩy tăng năng suất lao động, làm thay đổi căn bản mọi mặt của đời sống xã hội, trong đó TLSX chuyển mạnh từ hữu hình sang vô hình, là tri thức của loài người, là trí tuệ của con người, là trí tuệ nhân tạo (AI), internet vạn vật (loT), thông tin, dữ liệu lớn (Big data), điện toán đám mây, là CN tiên tiến, hiện đại, CN kỹ thuật số, bằng sáng chế, phát minh, giải pháp CN, bản quyền, thương hiệu, nhãn hiệu hàng hóa, lợi thế thương mại, uy tín trên thương trường... Tư liệu sản xuất vô hình ngày càng chiếm vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế tri thức, kinh tế số. Điều này chính là động lực thúc đẩy LLSX xã hội phát triển, là cơ sở để chuyển mạnh sang sản xuất theo chiều sâu, tăng năng suất của các yếu tố tổng hợp (TFP), tăng năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Khoa học, công nghệ góp phần thay đổi phương thức sản xuất, từ lao động thủ công sang tự động hóa và tối ưu hóa hiệu quả sử dụng tài nguyên. Tại Việt Nam, các công nghệ như trí tuệ nhân tạo (AI), Internet vạn vật (IoT) và công nghệ chuỗi khối (Blockchain) đang được áp dụng trong nhiều ngành kinh tế giúp tối ưu hóa quy trình sản xuất, giảm chi phí và tăng năng suất. Trong nông nghiệp: Công nghệ nông nghiệp chính xác giúp giám sát môi trường canh tác, tối ưu hóa việc sử dụng nước và phân bón, từ đó nâng cao năng suất và giảm chi phí. Trong công nghiệp: Việc áp dụng dây chuyền sản xuất tự động hóa và rô-bốt đã cải thiện đáng kể hiệu suất trong các ngành, như điện tử, dệt may và chế biến thực phẩm. Trong dịch vụ: Các nền tảng số hóa và thương mại điện tử (e-commerce) đang thay đổi cách thức cung cấp dịch vụ (Shopee, Lazada, Tiki…), giúp tiết kiệm thời gian và chi phí cho cả doanh nghiệp lẫn người tiêu dùng.
Khoa học, công nghệ không chỉ cải thiện các ngành sản xuất truyền thống mà còn tạo ra các ngành nghề mới, góp phần chuyển đổi cơ cấu kinh tế của Việt Nam. Nền kinh tế chuyển từ dựa vào tài nguyên thiên nhiên và lao động giá rẻ sang kinh tế tri thức, nơi mà giá trị gia tăng được tạo ra từ sự ĐMST. Điều này thể hiện qua sự phát triển của các ngành công nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp thông minh và dịch vụ sáng tạo, tiêu biểu, như ngành công nghệ thông tin. Sự phát triển nhanh chóng của các công ty công nghệ, như FPT, VinGroup, Viettel cho thấy Việt Nam có thể trở thành một trung tâm công nghệ tại khu vực Đông Nam Á. Các dự án năng lượng gió, mặt trời đã mở ra hướng đi mới cho ngành năng lượng tái tạo, góp phần giảm phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch. Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo giúp Việt Nam tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu, tăng cường hội nhập quốc tế. Thông qua việc tiếp nhận CN từ các quốc gia phát triển và hợp tác trong lĩnh vực nghiên cứu, Việt Nam đang dần khẳng định vị thế trong các ngành công nghiệp có hàm lượng công nghệ cao.
Thứ hai, KH, CN và ĐMST góp phần hoàn thiện QHSX tiến bộ phù hợp.
Lực lượng sản xuất hiện đại trên nền tảng số phát triển mạnh mẽ tất yếu kéo theo sự phát triển tương ứng của QHSX theo đúng quy luật cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê-nin: QHSX phù hợp với trình độ phát triển nhất định của LLSX. Sự thay đổi trong QHSX sẽ tác động mạnh đến kiến trúc thượng tầng, mở ra phương thức mới trong quản trị xã hội, tạo ra những công cụ mới trong quản lý nhà nước, làm thay đổi căn bản cách thức tương tác giữa Nhà nước và công dân, giữa các tầng lớp xã hội.
Khoa học, công nghệ tạo ra sự bình đẳng trong tiếp cận tài nguyên và CN. Đổi mới sáng tạo mang lại cơ hội cho mọi người, bất kể vùng, miền hay hoàn cảnh kinh tế, tiếp cận với các sản phẩm và dịch vụ hiện đại. Công nghệ số giúp kết nối các khu vực kém phát triển với các thị trường lớn, thúc đẩy giao thương và cải thiện đời sống người dân ở vùng sâu, vùng xa. Ví dụ, các nền tảng thương mại điện tử đã giúp nông dân tiếp cận trực tiếp với người tiêu dùng. Việc áp dụng CN vào các lĩnh vực, như giáo dục trực tuyến, y tế từ xa đã giúp nâng cao chất lượng dịch vụ tại các khu vực khó khăn, góp phần thu hẹp khoảng cách giàu - nghèo.
Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo làm thay đổi mô hình tổ chức sản xuất, thay đổi trong cách thức tổ chức và vận hành sản xuất, thay đổi quan hệ lao động. Với sự phát triển của tự động hóa, mối quan hệ giữa người lao động và doanh nghiệp dần chuyển sang các mô hình linh hoạt hơn, như làm việc từ xa hoặc làm việc theo dự án. Hiện nay, nhiều công ty Việt Nam đang chuyển đổi từ quản lý truyền thống sang sử dụng các hệ thống quản lý thông minh, giúp tối ưu hóa nguồn lực và tăng cường hiệu quả, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của người lao động. Về điều này, Tổng Bí thư Tô Lâm chỉ rõ: Sự thay đổi trong QHXS sẽ tác động mạnh đến kiến trúc thượng tầng, mở ra phương thức mới trong quản trị xã hội, tạo ra những công cụ mới trong quản lý nhà nước, làm thay đổi căn bản cách thức tương tác giữa Nhà nước và công dân, giữa các tầng lớp xã hội(1).
Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo cũng hỗ trợ phát triển kinh tế chia sẻ, một mô hình kinh tế dựa trên nền tảng CN, đang tạo ra sự thay đổi lớn trong QHSX. Các nền tảng CN, như Grab, Be và Airbnb đã tạo điều kiện cho việc sử dụng hiệu quả tài nguyên dư thừa, đồng thời thay đổi cách thức phân phối các nguồn lực. KH, CN giúp thu hẹp khoảng cách giữa các vùng, miền thông qua việc phổ biến các giải pháp công nghệ giá rẻ, nâng cao mức sống của người dân ở vùng sâu, vùng xa, góp phần bảo đảm công bằng trong phân phối lợi ích. Ngoài ra, KH, CN còn tăng cường hợp tác và kết nối. Đổi mới sáng tạo tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong và ngoài nước hợp tác thông qua chia sẻ CN và nguồn lực. Mô hình kinh doanh nền tảng số (platform economy) là minh chứng điển hình.
Thực tiễn phát triển KH, CN và ĐMST trong phát triển nhanh LLSX và hoàn thiện QHSX ở Việt Nam hiện nay
Trong phát triển nhanh LLSX: KH, CN và ĐMST đóng vai trò trung tâm trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, là chìa khóa để Việt Nam chuyển đổi nền kinh tế theo hướng bền vững. Việt Nam đã áp dụng các giải pháp tự động hóa và hệ thống sản xuất thông minh trong nhiều ngành công nghiệp, như điện tử, ô tô, chế biến thực phẩm… Các nhà máy thông minh sử dụng trí tuệ nhân tạo (AI), internet vạn vật (IoT), dữ liệu lớn (Big Data) để tối ưu hóa quy trình sản xuất và nâng cao năng suất lao động. Nhiều doanh nghiệp thực hiện CĐS mạnh mẽ, ứng dụng thành công các công nghệ tiên tiến vào sản xuất và kinh doanh, điển hình như VinGroup, FPT, Viettel… Đặc biệt trong lĩnh vực sản xuất và thương mại, các hệ thống quản lý tích hợp như ERP (Enterprise Resource Planning - lập kế hoạch doanh nghiệp) đã được triển khai, giúp nâng cao hiệu quả hoạt động và tối ưu hóa nguồn lực. Công nghệ sinh học đã được áp dụng rộng rãi trong nông nghiệp và công nghiệp thực phẩm, góp phần tạo ra các sản phẩm giá trị cao, thân thiện với môi trường và tăng năng suất lao động. Mạng lưới viễn thông và internet như mạng 4G và 5G đã được triển khai rộng khắp, tạo điều kiện thuận lợi cho các ứng dụng CN trong sản xuất và kinh doanh. Hệ thống cáp quang internet đã phủ sóng đến hầu hết các khu vực nông thôn và vùng sâu, vùng xa. Việt Nam đã phát triển các trung tâm dữ liệu lớn và cung cấp dịch vụ điện toán đám mây giúp các doanh nghiệp tiếp cận công nghệ tiên tiến mà không cần đầu tư lớn.
Bên cạnh đó, công tác đào tạo, bồi dưỡng, phát triển nguồn nhân lực công nghệ cao đạt được những kết quả nhất định. Các trường đại học và trung tâm nghiên cứu đã, đang mở nhiều chương trình đào tạo chuyên sâu về khoa học dữ liệu, trí tuệ nhân tạo và kỹ thuật số, đáp ứng nhu cầu về nguồn nhân lực chất lượng cao. Việt Nam tăng cường hợp tác với các tổ chức và doanh nghiệp quốc tế trong lĩnh vực đào tạo và chuyển giao công nghệ, qua đó nâng cao trình độ nhân lực. Không những thế, Việt Nam được đánh giá là một trong những quốc gia có tốc độ phát triển khởi nghiệp sáng tạo nhanh nhất khu vực Đông Nam Á. Các trung tâm nghiên cứu và vườn ươm công nghệ được xây dựng ở nhiều nơi, như Khu Công nghệ cao Hòa Lạc, thành phố thông minh ở thành phố Hồ Chí Minh. Hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo phát triển mạnh mẽ với hơn 3.000 startup hoạt động trong nhiều lĩnh vực. Các dự án công nghệ lớn, như VinFast và các nhà máy điện gió đang chứng minh tiềm năng cạnh tranh quốc tế của Việt Nam. Ngoài ra, Nhà nước đã chú trọng đầu tư vào đào tạo nhân lực KH, CN, với các chương trình như STEM trong giáo dục phổ thông và các quỹ hỗ trợ nghiên cứu KH.
Trong hoàn thiện QHSX tiến bộ phù hợp: KH, CN đã giúp chuyển đổi mô hình sản xuất, cải thiện liên kết giữa các doanh nghiệp, nhà cung cấp và khách hàng, hình thành các chuỗi giá trị số hiện đại. Ứng dụng blockchain và các nền tảng công nghệ khác đã giúp tăng cường tính minh bạch trong các giao dịch và quản lý chuỗi cung ứng. Sự phát triển của các nền tảng CN như Grab, Shopee, Airbnb… đã thúc đẩy mô hình kinh tế chia sẻ, tối ưu hóa nguồn lực và tạo ra cơ hội việc làm mới. Nhiều dự án phát triển công nghệ và CĐS đã được thực hiện dưới hình thức hợp tác công - tư, tối ưu hóa nguồn lực và giảm gánh nặng ngân sách. Chính phủ đã triển khai các chương trình hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa (SMEs) tiếp cận CN và CĐS, giúp các doanh nghiệp này tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu. Các chương trình quốc gia đã đưa điện, internet và các công nghệ hiện đại đến các khu vực khó khăn, giúp người dân tham gia vào các hoạt động kinh tế - xã hội một cách hiệu quả hơn. Các chương trình đào tạo ngắn hạn và trực tuyến đã giúp người lao động nâng cao kỹ năng số, đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động hiện đại, qua đó giúp giảm bất bình đẳng trong tiếp cận CN. Các công cụ phân tích dữ liệu lớn đã được áp dụng để cải thiện năng lực quản lý và hoạch định các chính sách phù hợp. Chính phủ điện tử đã được triển khai mạnh mẽ, giúp giảm thiểu thủ tục hành chính, tăng cường tính minh bạch và hiệu quả.
Bên cạnh những kết quả trên, phát triển KH, CN và ĐMST trong phát triển nhanh LLSX và hoàn thiện QHSX ở Việt Nam hiện nay còn một số hạn chế và thách thức sau:
Về hạn chế:
Một là, đầu tư cho KH, CN còn thấp và dàn trải. Tỷ lệ đầu tư chưa đạt yêu cầu quốc tế. Hiện nay, chi tiêu cho nghiên cứu và phát triển (R&D) của Việt Nam chỉ chiếm khoảng 0,5% - 0,7% GDP, thấp hơn nhiều so với mức trung bình của thế giới (khoảng 2,3% GDP)(2); điều này làm hạn chế khả năng triển khai các dự án KH, CN quy mô lớn và dài hạn. Việc phân bổ nguồn lực thiếu tập trung vào các lĩnh vực mũi nhọn, như công nghệ thông tin, năng lượng tái tạo và công nghệ sinh học, dẫn đến nhiều dự án KH, CN không đạt được hiệu quả cao và không tạo ra tác động đột phá.
Hai là, thiếu hụt nhân lực chất lượng cao. Số lượng chuyên gia, nhà khoa học và kỹ sư có trình độ cao còn hạn chế, tỷ lệ nhân lực R&D trên 1 triệu dân của Việt Nam thấp hơn nhiều so với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới; chế độ, chính sách để giữ chân nhân tài còn bất cập, chưa đủ mạnh; một phần lớn các tài năng KH, CN du học ở nước ngoài không trở về nước do thiếu môi trường làm việc phù hợp và các chính sách ưu đãi hấp dẫn; chất lượng đào tạo chưa đáp ứng nhu cầu thực tiễn. Hệ thống giáo dục đại học và đào tạo nghề chưa cung cấp đủ kỹ năng cần thiết để đáp ứng yêu cầu công nghệ cao của các ngành kinh tế.
Ba là, cơ chế, chính sách phát triển KH, CN chưa đồng bộ và thiếu hiệu quả. Nhiều quy định pháp luật liên quan đến phát triển KH, CN chưa cụ thể hoặc khó thực hiện, dẫn đến việc triển khai các dự án gặp nhiều khó khăn. Thủ tục hành chính liên quan đến việc cấp phép, triển khai dự án KH, CN còn phức tạp, tốn nhiều thời gian, làm giảm sự linh hoạt của doanh nghiệp và tổ chức nghiên cứu. Mặc dù có nhiều chính sách khuyến khích khởi nghiệp sáng tạo, nhưng nguồn vốn, kết cấu hạ tầng và mạng lưới hỗ trợ vẫn còn hạn chế, gây khó khăn cho các doanh nghiệp trẻ.
Bốn là, kết cấu hạ tầng KH, CN còn lạc hậu. Trang thiết bị nghiên cứu lỗi thời. Nhiều phòng thí nghiệm và trung tâm nghiên cứu tại Việt Nam vẫn sử dụng trang thiết bị cũ, không đáp ứng yêu cầu của các nghiên cứu hiện đại. Sự phối hợp giữa các cơ sở nghiên cứu, viện khoa học và doanh nghiệp còn yếu, dẫn đến lãng phí nguồn lực và hạn chế trong việc ứng dụng kết quả nghiên cứu vào thực tiễn sản xuất.
Về thách thức:
Một là, cạnh tranh toàn cầu và sức ép hội nhập. Hiện nay, Việt Nam đang phải cạnh tranh với các nước phát triển và các quốc gia mới nổi trong việc thu hút nguồn lực, công nghệ và vốn đầu tư. Các nước như Trung Quốc, Hàn Quốc và Singapore đều có nền tảng KH, CN mạnh mẽ, đặt ra thách thức lớn cho Việt Nam. Bên cạnh đó, các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới (CPTPP, EVFTA) yêu cầu Việt Nam phải đáp ứng các tiêu chuẩn về CN, sở hữu trí tuệ và ĐMST, trong khi năng lực KH, CN nội tại chưa thực sự mạnh.
Hai là, Cách mạng công nghiệp lần thứ tư với sự phát triển như vũ bão của KH, CN và ĐMST từng ngày, từng giờ, đã và đang đặt ra thách thức lớn với Việt Nam, đó là nguy cơ tụt hậu CN. Sự phát triển nhanh chóng của các CN mới đòi hỏi Việt Nam phải nhanh chóng thích nghi. Tuy nhiên, năng lực tiếp nhận và ứng dụng các CN này vẫn còn hạn chế. Sự thay đổi cấu trúc việc làm như tự động hóa và số hóa có thể làm giảm số lượng lao động trong các ngành truyền thống cũng đặt ra thách thức trong việc chuyển đổi kỹ năng cho lực lượng lao động.
Ba là, sự phụ thuộc vào đầu tư nước ngoài cũng là một thách thức. Phần lớn các doanh nghiệp FDI tại Việt Nam sử dụng CN trung bình, dẫn đến việc LLSX của Việt Nam phụ thuộc nhiều vào CN nhập khẩu, không tạo được nền tảng nội lực vững chắc. Sự phát triển KH, CN và ĐMST ở các vùng nông thôn và miền núi còn rất thấp so với các đô thị lớn, gây ra sự mất cân đối trong phân bổ tài nguyên sản xuất và phát triển kinh tế, tạo ra sự chênh lệch giữa các vùng, miền, cản trở không nhỏ đối với việc hoàn thiện QHSX.
Bốn là, bảo vệ môi trường và phát triển bền vững là thách thức đối với sự phát triển kinh tế - xã hội hiện nay. Một số CN sản xuất gây ô nhiễm môi trường hoặc tiêu tốn tài nguyên thiên nhiên vẫn đang được áp dụng nhiều tại Việt Nam. Ứng dụng CN xanh đang gặp nhiều khó khăn. Mặc dù các CN xanh, như năng lượng tái tạo, sản xuất sạch hơn đã được chú trọng, nhưng chi phí đầu tư cao và thiếu cơ chế hỗ trợ khiến việc triển khai gặp nhiều trở ngại.
Giải pháp phát triển KH, CN và ĐMST nhằm phát triển nhanh LLSX, hoàn thiện QHSX ở Việt Nam thời gian tới
Thứ nhất, tăng cường đầu tư cho KH, CN và ĐMST.
Nâng cao tỷ lệ đầu tư cho R&D bằng cách tăng tỷ lệ đầu tư từ GDP. Chính phủ cần tăng tỷ lệ đầu tư cho R&D lên mức tối thiểu 1,5-2% GDP vào năm 2030. Đây là ngưỡng phù hợp với các nước phát triển trong khu vực như Hàn Quốc hay Singapore. Đẩy mạnh huy động nguồn lực xã hội, tạo cơ chế để thu hút sự tham gia của doanh nghiệp tư nhân và các tổ chức quốc tế vào hoạt động KH, CN. Nhà nước có thể áp dụng chính sách giảm thuế hoặc hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp đầu tư vào R&D.
Đầu tư có trọng tâm, trọng điểm theo hướng tập trung vào các lĩnh vực ưu tiên các ngành CN mũi nhọn, như trí tuệ nhân tạo, CN sinh học, năng lượng tái tạo và sản xuất thông minh để tạo ra các sản phẩm CN chiến lược. Tăng cường đầu tư cho cơ sở nghiên cứu bằng việc Chính phủ xây dựng các phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia, trung tâm ĐMST hiện đại, đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế.
Thứ hai, phát triển nguồn nhân lực KH, CN chất lượng cao.
Đây cũng là một trong những giải pháp trọng tâm được Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh trong bài viết “Chuyển đổi số - động lực quan trọng phát triển lực lượng sản xuất, hoàn thiện quan hệ sản xuất đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới”(3). Đổi mới hệ thống giáo dục và đào tạo theo hướng tăng cường đào tạo gắn với thực tiễn. Cải cách giáo dục đại học và đào tạo nghề để đáp ứng nhu cầu của các ngành kinh tế hiện đại. Các chương trình đào tạo cần kết hợp lý thuyết với thực hành, tập trung vào các kỹ năng CN cao, như lập trình, thiết kế hệ thống và quản lý dự án CN; hợp tác quốc tế trong đào tạo trên cơ sở đẩy mạnh hợp tác với các trường đại học và tổ chức nghiên cứu hàng đầu trên thế giới để nâng cao trình độ đội ngũ giảng viên và nhà khoa học Việt Nam.
Bổ sung, hoàn thiện chính sách thu hút và giữ chân nhân theo hướng ưu đãi hấp dẫn. Áp dụng các chính sách đặc biệt về tiền lương, thưởng, điều kiện làm việc; thu hút nhân tài trong và ngoài nước với các chính sách hấp dẫn về quốc tịch, thu nhập, nhà ở và môi trường làm việc như Nghị quyết số 57-NQ/TW đã nêu. Hỗ trợ khởi nghiệp ĐMST bằng việc xây dựng các quỹ hỗ trợ và vườn ươm doanh nghiệp dành riêng cho các nhà khoa học trẻ và các nhóm nghiên cứu tiềm năng.
Tăng cường đào tạo trong doanh nghiệp như đào tạo tại chỗ để nâng cao kỹ năng cho người lao động, giúp họ thích nghi với CN mới; hợp tác giữa nhà trường và doanh nghiệp thông qua phát triển các chương trình hợp tác đào tạo giữa trường đại học và doanh nghiệp để cung cấp nhân lực chất lượng cao, sẵn sàng làm việc ngay sau khi tốt nghiệp.
Thứ ba, hoàn thiện cơ chế, chính sách thúc đẩy KH, CN phát triển.
Đảng ta xác định, thể chế là “điểm nghẽn của mọi điểm nghẽn”, do vậy, giải pháp này cần được coi là đột phá và tiên phong. Trước hết, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính bằng việc giảm thiểu rào cản pháp lý, như đơn giản hóa các thủ tục liên quan đến việc triển khai các dự án KH, CN, đặc biệt là các dự án có yếu tố ĐMST; tăng cường tính minh bạch như xây dựng hệ thống đánh giá, phê duyệt các dự án KH, CN minh bạch, công khai, tạo niềm tin cho các nhà khoa học và doanh nghiệp.
Hoàn thiện chính sách sở hữu trí tuệ, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ. Xây dựng cơ chế bảo vệ và thực thi quyền sở hữu trí tuệ hiệu quả; khuyến khích các nhà khoa học và doanh nghiệp đầu tư vào nghiên cứu; tăng cường hợp tác quốc tế thông qua việc tham gia sâu hơn vào các tổ chức quốc tế về sở hữu trí tuệ để học hỏi kinh nghiệm và bảo đảm quyền lợi cho các nhà sáng chế Việt Nam.
Khuyến khích doanh nghiệp tham gia vào hoạt động R&D bằng việc hỗ trợ tài chính. Chính phủ cần có chính sách hỗ trợ về thuế, vốn vay ưu đãi cho các doanh nghiệp đầu tư vào KH, CN; thúc đẩy hợp tác công - tư theo hướng phát triển các hình thức hợp tác công - tư trong nghiên cứu và ứng dụng CN để chia sẻ rủi ro và tối ưu hóa nguồn lực.
Thứ tư, phát triển kết cấu hạ tầng KH, CN hiện đại.
Chú trọng công tác nâng cấp, đầu tư trang thiết bị nghiên cứu, trước hết là tăng cường đầu tư vào các phòng thí nghiệm. Xây dựng các phòng thí nghiệm quốc gia và khu vực với trang thiết bị hiện đại, phục vụ các nghiên cứu chuyên sâu trong các lĩnh vực ưu tiên; công nghệ hóa các ngành truyền thống bằng cách ứng dụng các thiết bị hiện đại vào các ngành sản xuất truyền thống, như nông nghiệp, công nghiệp chế biến để nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm.
Phát triển mạng lưới ĐMST theo hướng xây dựng trung tâm ĐMST. Các trung tâm ĐMST cần được quan tâm phát triển mạnh tại các thành phố lớn, các vùng kinh tế trọng điểm, như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Hải Phòng, Cần Thơ để thu hút nhân lực và thúc đẩy hợp tác KH, CN. Đẩy mạnh liên kết vùng bằng việc phát triển các mạng lưới ĐMST liên vùng để chia sẻ nguồn lực và kinh nghiệm giữa các khu vực; đây cũng là một trong những nhiệm vụ trọng tâm mà Nghị quyết số 57-NQ/TW đã đề ra.
Thứ năm, đẩy mạnh ứng dụng KH, CN vào thực tiễn.
Tăng cường chuyển giao CN theo hướng xây dựng cơ chế chuyển giao CN, như đơn giản hóa thủ tục và hỗ trợ tài chính cho các dự án chuyển giao CN giữa viện nghiên cứu, trường đại học và doanh nghiệp; khuyến khích doanh nghiệp sử dụng CN cao thông qua chính sách hỗ trợ một phần chi phí cho các doanh nghiệp áp dụng CN mới trong sản xuất.
Ứng dụng KH, CN vào các lĩnh vực trọng yếu là yêu cầu bắt buộc, trước hết ở lĩnh vực nông nghiệp CN cao, như thúc đẩy ứng dụng CN sinh học, CN tự động hóa và các giải pháp thông minh để phát triển nông nghiệp bền vững; lĩnh vực công nghiệp sản xuất thông minh bằng cách tăng cường tự động hóa, rô-bốt hóa trong các nhà máy sản xuất, nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp Việt Nam. Ứng dụng CN thông tin và trí tuệ nhân tạo vào y tế và giáo dục để cải thiện chất lượng dịch vụ và giảm chi phí.
Thứ sáu, thúc đẩy hội nhập quốc tế về KH, CN.
Tăng cường hợp tác quốc tế về KH, CN theo hướng tham gia các dự án nghiên cứu quốc tế để học hỏi kinh nghiệm và tiếp cận các CN tiên tiến; mở rộng hợp tác với các tổ chức quốc tế thông qua đẩy mạnh hợp tác với Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO), Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) và các tổ chức khác để tận dụng sự hỗ trợ trong phát triển KH, CN. Bên cạnh đó, xuất khẩu CN là một trong những giải pháp cần được quan tâm, trong đó, hoạt động xây dựng thương hiệu CN Việt Nam cần được chú trọng. Chính phủ cần hỗ trợ các doanh nghiệp KH, CN trong việc xuất khẩu CN ra thị trường quốc tế để tăng nguồn thu nhập và góp phần nâng cao vị thế quốc gia, hướng tới kỷ nguyên phát triển bứt phá, giàu mạnh của dân tộc Việt Nam./.
------------------------
(1), (3) Xem: Tô Lâm: “Chuyển đổi số - động lực quan trọng phát triển lực lượng sản xuất, hoàn thiện quan hệ sản xuất đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới”, Tạp chí Cộng sản điện tử, ngày 2-9-2024, https://www.tapchicongsan.org.vn/media-story/-/asset_publisher/V8hhp4dK31Gf/content/chuyen-doi-so-dong-luc-quan-trong-phat-trien-luc-luong-san-xuat-hoan-thien-quan-he-san-xuat-dua-dat-nuoc-buoc-vao-ky-nguyen-moi
(2) Xem: Thái Thanh Quý: Báo cáo tóm tắt tình hình, kết quả thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số thời gian qua; quán triệt triển khai tinh thần và nội dung cốt lõi của Nghị quyết số 57-NQ/TW về đột phát phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, Hội nghị toàn quốc về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, Hà Nội, ngày 13-1-2025.
Nguồn: https://tapchicongsan.org.vn/web/guest/van_hoa_xa_hoi/-/2018/1172202/phat-trien-khoa-hoc%2C-cong-nghe%2C-doi-moi-sang-tao-phat-trien-nhanh-luc-luong-san-xuat-hien-dai%2C-hoan-thien-quan-he-san-xuat-theo-tinh-than-nghi-quyet-so-57-nq-tw.aspx






Bình luận (0)