Vietnam.vn - Nền tảng quảng bá Việt Nam

Phát triển văn hóa gắn với phát triển kinh tế và phát triển xã hội: Quá trình tất yếu, hướng đích của hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”

TCCS - Trong sự nghiệp đổi mới đất nước, Đảng ta luôn coi trọng vị trí, vai trò của văn hóa, đồng thời nhấn mạnh sự gắn kết giữa phát triển văn hóa với phát triển kinh tế - xã hội. Đây chính yêu cầu cấp thiết đặt ra ở nước ta hiện nay nhằm hiện thực hóa mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Tạp chí Cộng SảnTạp chí Cộng Sản25/11/2025

Festival Huế - sự kiện mang tầm cỡ quốc tế, giúp quảng bá nét đẹp của văn hoá Việt Nam đến thế giới_Ảnh: TTXVN

Cơ sở lý luận về phát triển văn hóa gắn với phát triển kinh tế và phát triển xã hội

Mối quan hệ biện chứng giữa phát triển văn hóa với phát triển kinh tế và phát triển xã hội được đặt ra trong học thuyết Mác - Lê-nin, theo đó văn hóa là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng, dựa trên sự phát triển của cơ sở hạ tầng cốt lõi là kinh tế, song văn hóa cũng phản ánh sự phát triển của kinh tế, có tác động lớn đối với kinh tế và tồn tại xã hội. Để tạo sự phát triển đồng bộ và toàn diện của một hình thái kinh tế - xã hội, phát triển của văn hóa phải được quan tâm đúng mức.  

Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh vị trí, vai trò, tầm quan trọng của văn hóa trong sự phát triển của một quốc gia: “Trong công cuộc kiến thiết nước nhà có bốn vấn đề cùng phải chú ý đến, cùng phải coi trọng ngang nhau: chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa”(1). Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9 khóa XI (năm 2014) tiếp tục khẳng định: “Văn hóa phải được đặt ngang hàng với chính trị, kinh tế và xã hội”(2). Về những mục tiêu chính trong phát triển đất nước, Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) xác định: Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện(3).

Sự cần thiết phải gắn kết chặt chẽ giữa phát triển văn hóa với phát triển kinh tế, phát triển xã hội thể hiện ở ba nội dung sau:

Thứ nhất, văn hóa là nền tảng tinh thần của phát triển kinh tế - xã hội.

Văn hóa là nền tảng tinh thần giữ vai trò định hướng sự phát triển của kinh tế và xã hội. Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) khi phát động “Thập kỷ văn hóa vì sự phát triển thế giới” khẳng định: Văn hóa phải đứng ở vị trí trung tâm của sự phát triển và sự phát triển phải được khởi đầu và truyền bá bởi văn hóa. Văn hóa giữ vai trò định hướng sự phát triển của kinh tế bằng các mục tiêu nhân văn, điều tiết sự phát triển của xã hội bằng hệ thống các giá trị, chuẩn mực văn hóa. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhấn mạnh: Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi.

Thứ hai, văn hóa là mục tiêu của phát triển kinh tế - xã hội.

Theo quan điểm phát triển bền vững của Liên hợp quốc, các trụ cột của phát triển bền vững bao gồm: kinh tế, xã hội, môi trường, trong đó xã hội gồm nhiều lĩnh vực mà cốt lõi là văn hóa. Do vậy, để phát triển bền vững đất nước thì phát triển kinh tế - xã hội phải song hành với phát triển văn hóa. Đảng ta đặt ra mục tiêu “xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Mục tiêu “dân giàu”, “nước mạnh” dù chủ yếu nói đến phương diện kinh tế song cũng không thể không nhắc tới yếu tố văn hóa khi văn hóa giúp đời sống nhân dân ngày càng được nâng cao tinh thần, từ đó giúp chuyển hóa thành sức mạnh vật chất, gia tăng “sức mạnh mềm” của quốc gia trên trường quốc tế. Để đạt được mục tiêu “dân chủ, công bằng, văn minh”, không thể không chú trọng phát triển văn hóa, phát triển xã hội, bảo đảm sự hài hòa giữa các phương diện kinh tế, văn hóa, xã hội.

Thứ ba, văn hóa là động lực của phát triển kinh tế - xã hội. Không chỉ là nền tảng tinh thần và mục tiêu của phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa là động lực to lớn thúc đẩy sự phát triển của kinh tế - xã hội. Văn hóa có sức lan tỏa và ảnh hưởng sâu sắc tới các lĩnh vực khác, thấm sâu vào đời sống xã hội, tạo dựng môi trường văn hóa lành mạnh để kinh tế và xã hội phát triển. Văn hóa cũng được xem là nguồn lực to lớn, “nguồn vốn” đầy tiềm năng để khai thác, phát triển kinh tế, thúc đẩy các ngành công nghiệp văn hóa, đóng góp vào sự phát triển chung của quốc gia.  

Phát triển kinh tế được hiểu là quá trình tăng trưởng và cải thiện mức độ phát triển của nền kinh tế, thể hiện trên các phương diện: gia tăng tổng thu nhập của nền kinh tế và thu nhập bình quân đầu người; chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tiến bộ, hợp lý hơn; tăng trưởng các ngành kinh tế mới, giảm thiểu sự phụ thuộc vào các ngành kinh tế truyền thống; gia tăng hiệu quả và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế; áp dụng các tiến bộ khoa học, công nghệ, sử dụng tối ưu các nguồn lực; nâng cao năng suất lao động, hiệu quả của quy trình sản xuất; nguồn nhân lực chất lượng cao, bảo đảm tăng trưởng kinh tế lâu dài, ổn định; kết nối với các nền kinh tế toàn cầu, tạo điều kiện cho xuất khẩu hàng hóa dịch vụ, đầu tư trực tiếp nước ngoài và quan hệ kinh tế quốc tế.

Phát triển kinh tế tốt sẽ tạo tiền đề vật chất cho sự phát triển xã hội và văn hóa. Kinh tế phát triển tạo ra cơ hội việc làm, tăng thu nhập cho người dân, giảm bớt tình trạng thất nghiệp và đói nghèo, cải thiện mức sống. Phát triển kinh tế cũng tạo điều kiện cho mọi người tham gia nhiều hơn vào quá trình sáng tạo, sản xuất, truyền bá và thụ hưởng các giá trị và hoạt động văn hóa.   

“Dân giàu, nước mạnh” nghĩa là đời sống nhân dân giàu có, thực lực quốc gia lớn mạnh đưa tới sự phát triển sung túc, thịnh vượng của từng gia đình cũng như cả quốc gia, tạo nên sức mạnh kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, giúp nâng cao vị thế, uy tín, tầm vóc của Việt Nam trên trường quốc tế. Phát triển kinh tế chính là phương thức, công cụ để hiện thực hóa mục tiêu “dân giàu, nước mạnh”, tăng trưởng GDP, nâng cao thu nhập bình quân đầu  người. Đây cũng là điều kiện quan trọng để chúng ta duy trì hòa bình, độc lập, chủ quyền quốc gia.

Phát triển xã hội trên cơ sở phát triển kinh tế và văn hóa là thúc đẩy phát triển  mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, từ giáo dục, đào tạo, y tế đến bảo đảm an sinh xã hội, phúc lợi xã hội, góp phần nâng cao chất lượng sống của người dân. Phát triển xã hội cũng giúp giải quyết các vấn đề xã hội theo hướng nhân văn, hài hòa giữa các giai tầng, giảm bớt khoảng cách giàu nghèo, giảm bớt bất bình đẳng, hỗ trợ các dân tộc thiểu số, quan tâm đến các nhóm yếu thế, bảo đảm công bằng xã hội tiến tới tiến bộ xã hội, bảo đảm sự ổn định và phát triển bền vững của xã hội. Phát triển xã hội sẽ giúp giải quyết mâu thuẫn xã hội, tránh nảy sinh xung đột xã hội, góp phần bảo đảm an ninh con người và cao nhất là giải phóng và phát triển con người toàn diện.

Phát triển văn hóa phát triển toàn diện và đồng bộ các thành tố cấu thành nền văn hóa quốc gia, nâng cao hiệu quả trên các lĩnh vực hoạt động của văn hóa, từ xây dựng con người mà trọng tâm là xây dựng tư tưởng, đạo đức, lối sống, đến xây dựng môi trường văn hóa; bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa; phát triển văn học, nghệ thuật; phát triển khoa học và công nghệ; giáo dục và đào tạo; về văn hóa nghệ thuật, truyền thông đại chúng; giao lưu hợp tác quốc tế về văn hóa. Phát triển văn hóa gắn bó mật thiết với phát triển kinh tế, xã hội sẽ góp phần phát triển đồng bộ cả đời sống vật chất lẫn đời sống tinh thần của nhân dân; phát triển bền vững mọi mặt của đất nước; nâng cao trình độ dân trí, chất lượng nguồn nhân lực; thúc đẩy khoa học và công nghệ phát triển; củng cố kỷ cương và đạo đức nghề nghiệp; thúc đẩy sự phát triển của kinh tế - xã hội. Đây cũng chính là những điều kiện cần và đủ để hiện thực hóa mục tiêu “dân chủ, công bằng, văn minh”.

“Dân chủ” được thể hiện ở việc người dân thực sự được làm chủ trên mọi phương diện theo đúng phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”; là sự kế thừa và phát triển tư tưởng “lấy dân làm gốc”, quy tụ được sức mạnh toàn dân trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ngày nay, việc xây dựng, củng cố mục tiêu dân chủ đang góp phần huy động mọi nguồn lực xã hội, chung tay xây dựng và phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.  

“Công bằng” được biểu hiện trong đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội nhằm xóa bỏ những bất công, thiên lệch trong phân phối kết quả lao động, thu nhập, quyền và trách nhiệm, thụ hưởng phúc lợi xã hội,... “Công bằng” còn thể hiện ở sự bình quyền về mặt giới tính, bình đẳng trong thăng tiến nghề nghiệp, cơ hội phát triển cá nhân. Mục tiêu công bằng ở Việt Nam hiện nay thể hiện ở việc giảm bớt khoảng cách giàu nghèo, phân hóa xã hội; Chỉ số phát triển con người; hệ số thước đo thống kê về bất bình đẳng kinh tế trong dân số (GINI); mức độ thỏa mãn nhu cầu cơ bản của con người...  

“Văn minh” nghĩa là đất nước ngày càng phát triển theo hướng tiến bộ, nhân văn, hiện đại, theo kịp các nước phát triển. Văn minh không chỉ thể hiện trong đời sống vật chất, tiện nghi sinh hoạt, thành tựu khoa học và công nghệ, mà được biểu hiện trong đời sống tinh thần, thể hiện trên lĩnh vực văn học, nghệ thuật, sinh hoạt chính trị - xã hội, giáo dục và đào tạo, thực thi pháp luật, lối sống, nếp sống, văn hóa ứng xử. Văn minh còn là kết quả của sự tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại kết hợp với những giá trị tốt đẹp của văn hóa dân tộc.  

Như vậy, việc phát triển gắn kết, đồng bộ cả ba lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội chính là điều kiện, tiền đề, nền tảng để bảo đảm thực hiện các mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, qua đó nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người dân, xây dựng đất nước Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc.

Thực trạng phát triển văn hóa, kinh tế, xã hội ở nước ta

Phát triển văn hóa gắn với phát triển kinh tế về cơ bản gồm các nội dung sau: Xây dựng các giá trị, chuẩn mực và môi trường văn hóa trong kinh tế; gia tăng hàm lượng văn hóa, khoa học và công nghệ trong kinh tế; khai thác các nguồn lực văn hóa vào phát triển kinh tế; xây dựng nguồn nhân lực cho quá trình phát triển kinh tế. Thực tiễn gần 40 năm đổi mới ở nước ta cho thấy sự đúng đắn của việc gắn kết giữa phát triển văn hóa với phát triển kinh tế, xã hội. Việc xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh trong hoạt động kinh tế ngày càng được chú trọng. Văn hóa kinh doanh, văn hóa doanh nghiệp, văn hóa doanh nhân được quan tâm xây dựng, thể hiện ở các mặt, như triết lý kinh doanh, sứ mệnh, tầm nhìn, các giá trị cốt lõi, đạo đức kinh doanh, sự tuân thủ pháp luật, trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp. Việt Nam ngày càng xuất hiện nhiều doanh nghiệp khẳng định tên tuổi, uy tín, thương hiệu, có đóng góp tích cực với xã hội, như Vinamilk, Viettel, FPT, Vingroup, TH Truemilk... Đội ngũ doanh nhân ngày càng lớn mạnh, gắn lợi ích doanh nghiệp với lợi ích cộng đồng. Hàm lượng văn hóa, yếu tố sáng tạo và khoa học, công nghệ được khẳng định trong các sản phẩm, dịch vụ và hoạt động kinh tế. Những năm gần đây, chỉ số Đổi mới sáng tạo (GII) của Việt Nam liên tục được cải thiện.

Diễu hành Áo dài Du lịch Hà Nội 2025, một trong những điểm nhấn của Festival Văn hóa Thăng Long_Ảnh: TTXVN

Thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW, ngày 9-6-2014, của Hội nghị Trung ương 9 khóa XI “Về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”, văn hóa ngày càng được chú trọng như một nguồn lực quan trọng phục vụ phát triển kinh tế. “Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030” (được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 1755/QĐ-TTg, ngày 8-9-2016) đề ra mục tiêu đến năm 2020, doanh thu các ngành công nghiệp văn hóa đóng góp khoảng 3% GDP, đến năm 2030 khoảng 7% GDP, thì trước đại dịch COVID-19, năm 2018 các ngành công nghiệp văn hóa đã đóng góp 3,61% GDP, về đích sớm hơn 2 năm so với chỉ tiêu đặt ra trong Chiến lược(4).

Về phát triển văn hóa gắn với phát triển xã hội, mức độ sáng tạo, hưởng thụ, tiêu dùng văn hóa của nhân dân ngày càng tăng lên. Hệ thống phúc lợi và an sinh xã hội được coi trọng và mở rộng từng bước. Điều kiện tiếp cận thông tin của người dân được nâng lên rõ rệt. Bình đẳng giới có nhiều tiến bộ, tỷ lệ phụ nữ tham gia Quốc hội và giữ các trọng trách trong hệ thống chính trị ngày càng tăng cao. Phát triển văn hóa mang lại nhiều công ăn việc làm, thu nhập cho người dân, nhất là trong lĩnh vực phát huy giá trị di sản văn hóa, phát triển làng nghề truyền thống, du lịch văn hóa, góp phần xóa đói, giảm nghèo, cải thiện mức sống của nhân dân. Yếu tố văn hóa dần trở thành nền tảng điều tiết các quan hệ xã hội và ứng xử xã hội. Chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam ngày càng tăng cao. Từ năm 2008, Việt Nam đã hoàn thành hầu hết các mục tiêu thiên niên kỷ mà UNESCO đặt ra đến năm 2015.

Trong gần 40 năm đổi mới, sự gắn kết giữa phát triển văn hóa với phát triển kinh tế, xã hội đã được minh chứng rất rõ qua những thành tựu nổi bật mà đất nước đạt được. Năm 2024, GDP của Việt Nam đạt 476,3 tỷ USD, GDP bình quân đầu người đạt 4.700 USD(5), tăng gấp nhiều lần so với những năm đầu đổi mới. Tỷ lệ hộ nghèo đa chiều giảm nhanh còn 4,06% năm 2024(6). Xuất hiện những hình thái, lĩnh vực kinh tế mới mang hàm lượng văn hóa cao, như kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế chia sẻ, công nghiệp bán dẫn, trí tuệ nhân tạo (AI), năng lượng sạch...

Lĩnh vực an sinh xã hội, y tế, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, bảo vệ môi trường, xây dựng con người đều có nhiều chuyển biến tích cực. Những thành tựu trong phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội giúp con người Việt Nam phát triển thể chất, trí tuệ, đạo đức, nghề nghiệp, có cuộc sống ngày càng ấm no, hạnh phúc, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Thu nhập bình quân của người lao động được cải thiện, tăng bình quân từ 7% - 8%/năm trong giai đoạn 2013 - 2023. Công tác y tế, chăm sóc sức khỏe nhân dân được tăng cường, chất lượng dịch vụ khám, chữa bệnh được nâng lên. Thông qua các chính sách lao động, việc làm, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, chúng ta đã có những thành công lớn trong việc kiểm soát tốc độ gia tăng khoảng cách giàu nghèo. Hệ thống các dịch vụ xã hội cơ bản, thiết yếu được chú trọng, thể hiện ở các mặt, như phổ cập giáo dục; chương trình đào tạo nghề cho lao động nông thôn; xây dựng hệ thống y tế cơ sở và y tế dự phòng, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số; chương trình nhà ở cho các nhóm đối tượng yếu thế, dễ bị tổn thương, công nhân khu công nghiệp; nước sạch ở nông thôn; hệ thống thông tin truyền thông ở cơ sở... Nhiều chính sách phúc lợi, an sinh xã hội được thực hiện, như chính sách miễn, giảm học phí và hỗ trợ chi phí cho học sinh, sinh viên nghèo; hỗ trợ phát triển giáo dục mầm non; hỗ trợ phát triển giáo dục đối với con em đồng bào dân tộc thiểu số; hỗ trợ học bổng và phương tiện, đồ dùng học tập thực hiện chính sách giáo dục đối với người khuyết tật; chính sách ưu đãi người có công với cách mạng; hỗ trợ người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, người dân vùng bị thiên tai, bão lụt, hạn hán, rét đậm, rét hại, bệnh dịch...

Có thể khẳng định, trong gần 40 năm đổi mới, Việt Nam đã từng bước thực hiện tốt chủ trương gắn phát triển văn hóa với phát triển kinh tế, xã hội; tăng trưởng kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm cơ hội phát triển cho mọi người, góp phần hiện thực hóa nguyên tắc “không ai bị bỏ lại phía sau” trong quá trình phát triển.

Một số giải pháp nâng cao hiệu quả gắn kết giữa phát triển văn hóa với phát triển kinh tế, xã hội

Đại hội XIII của Đảng chỉ rõ: “Văn hóa chưa được quan tâm tương xứng với kinh tế và chính trị, chưa thật sự trở thành nguồn lực, động lực nội sinh của sự phát triển bền vững đất nước. Vai trò của văn hóa trong xây dựng con người chưa được xác định đúng tầm… Môi trường văn hóa, xã hội tiếp tục bị ô nhiễm bởi các tệ nạn xã hội, tham nhũng, tiêu cực. Chênh lệch về hưởng thụ văn hóa giữa các vùng, miền còn lớn; đời sống văn hóa ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa còn nhiều khó khăn… Đầu tư cho văn hóa chưa đúng mức, còn dàn trải, hiệu quả chưa cao. Chưa có giải pháp hữu hiệu để ngăn chặn, đẩy lùi sự xuống cấp nghiêm trọng về một số mặt văn hóa, đạo đức, lối sống, gây bức xúc xã hội”(7). Công nghiệp văn hóa đang ở giai đoạn đầu của sự phát triển nên còn gặp khó khăn. Thị trường sản phẩm và dịch vụ văn hóa phát triển manh mún, tự phát, thiếu vắng các thiết chế trung gian, mô hình thí điểm để huy động sự đóng góp, hưởng ứng của các tổ chức, doanh nghiệp. Nhiều doanh nghiệp chưa tuân thủ pháp luật. Tình trạng tham nhũng, tiêu cực ở một bộ phận cán bộ, đảng viên trong hệ thống chính trị đã và đang gây bức xúc trong dư luận.

Để khắc phục những tồn tại trên, cần đẩy mạnh thực hiện các giải pháp nâng cao hiệu quả sự gắn kết giữa phát triển văn hóa với phát triển kinh tế - xã hội sau:

Một là, nâng cao nhận thức về vai trò của phát triển văn hóa trong phát triển kinh tế và xã hội. Chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước luôn nhấn mạnh văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, nhưng thực tế, nhiều cấp ủy, chính quyền, doanh nghiệp, người dân chưa nhận thức đầy đủ vai trò, tầm quan trọng của phát triển văn hóa trong phát triển của kinh tế và xã hội cũng như mối quan hệ với các mục tiêu phát triển đất nước. Các cơ quan liên quan khi xây dựng hệ thống luật pháp, các chính sách kinh tế, xã hội, văn hóa cũng chưa chú trọng đầy đủ đến sự gắn kết này. Do vậy, cần nâng cao nhận thức để có các hành động, quyết sách phù hợp, thực thi nghiêm túc trong các cấp, các ngành và toàn xã hội.

Hai là, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trong việc lãnh đạo, chỉ đạo phát triển văn hóa với phát triển kinh tế - xã hội; không chỉ trong việc đề ra chủ trương, đường lối đúng đắn, mà còn ở năng lực lãnh đạo các chủ trương, đường lối đó đi nhanh chóng vào thực tiễn cuộc sống; không chỉ ở việc ban hành các chỉ thị, nghị quyết, mà còn là việc triển khai, kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chỉ thị, nghị quyết đó.

Sắp xếp tổ chức bộ máy, thực hiện mô hình chính quyền địa phương hai cấp theo hướng tinh, gọn, mạnh, hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ cấp chiến lược đáp ứng yêu cầu phát triển trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Tiếp tục đề ra các cơ chế, chính sách trọng dụng, thu hút nhân tài vào làm việc trong hệ thống chính trị. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học, tổng kết lý luận, nâng cao chất lượng cuộc đấu tranh tư tưởng và học thuật. Tham khảo kinh nghiệm quốc tế về phát triển kinh tế, phát triển văn hóa, phát triển xã hội.

Ba là, kịp thời rà soát, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo động lực và điều kiện để khu vực kinh tế tư nhân và toàn xã hội tham gia nhiều hơn vào phát triển văn hóa, phát triển kinh tế và xã hội. Hoàn thiện thể chế kinh tế, văn hóa, xã hội, trong đó chú trọng các vấn đề về dân số và phát triển, bảo đảm an sinh xã hội, an ninh con người, chăm sóc sức khỏe toàn dân, giáo dục nghề nghiệp, hỗ trợ các nhóm người yếu thế…, phù hợp với cơ chế kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Tạo môi trường tự do, dân chủ trong sáng tạo văn hóa, nghệ thuật. Chuyển đổi cơ chế quản lý từ cấp phép, “xin - cho” sang cơ chế “vì dân phục vụ” để giải phóng sức sáng tạo của văn nghệ sĩ, khuyến khích sự đa dạng của các biểu đạt văn hóa, thúc đẩy lực lượng sản xuất văn hóa phát triển.

Bốn là, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước. Tập trung chức năng quản lý, xây dựng hành lang pháp luật và chính sách phù hợp để giúp nền kinh tế vận hành hiệu quả. Tạo điều kiện để hình thành các tập đoàn kinh tế, doanh nghiệp tư nhân lớn bên cạnh các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Chú trọng gia tăng hàm lượng văn hóa, tri thức trong tất cả các khâu quản trị, sản xuất, kinh doanh, thương mại, đầu tư,... cũng như hệ sinh thái liên quan, như khoa học và công nghệ; giáo dục và đào tạo; tài nguyên và môi trường; báo chí, truyền thông... Xây dựng nền văn hóa công vụ chuyên nghiệp, liêm chính, thân thiện với người dân và doanh nghiệp. Hoàn thiện nền tảng Chính phủ điện tử nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước, hình thành hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia về các ngành, lĩnh vực trọng yếu đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số, xã hội số. Phối hợp đồng bộ, hiệu quả giữa các bộ, ban, ngành, địa phương trong việc tăng cường sự gắn kết giữa phát triển văn hóa với phát triển kinh tế và xã hội. Phân định rõ chủ thể, trách nhiệm của các bên liên quan trong quá trình phối hợp. Nâng cao hiệu quả tổ chức thực thi pháp luật. Tăng cường trách nhiệm giải trình của các cơ quan hoạch định chính sách và cung cấp dịch vụ xã hội thông qua giám sát và đối thoại dưới nhiều hình thức. Đổi mới công tác giám sát của các cơ quan của Quốc hội, các tổ chức chính trị - xã hội nhằm bảo đảm tính liên thông, gắn kết, hiệu quả giữa việc xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật. Xử lý kiên quyết, nghiêm minh các vi phạm theo đúng quy định của pháp luật, không có “vùng cấm”, ngoại lệ, “quyền miễn trừ”, tránh hiện tượng “nhờn” luật.

Năm là, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước trong thời kỳ mới. Tập trung đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao trong công tác lãnh đạo, quản lý, nghiên cứu, giảng dạy và tổ chức các hoạt động kinh tế, văn hóa và xã hội. Đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong việc gắn kết hài hòa giữa kinh tế, văn hóa, xã hội, góp phần hiện thực hóa hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”./.

----------------------

(1) Hồ Chí Minh: Về văn hóa, Bảo tàng Hồ Chí Minh, Hà Nội, 1997, tr. 11
(2) Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2014, tr. 48
(3) Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011), Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 13 - 14
(4) Thế Công: “Để văn hóa thực sự trở thành ngành công nghiệp phát triển - Bài 1: Chủ trương đúng đắn”, Cổng thông tin điện tử Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, ngày 1-4-2024
(5) Vũ Dung: “GDP của Việt Nam ước tăng 7,09% trong năm 2024”, Báo Quân đội nhân dân điện tử, ngày 6-1-2025
(6) PV: “Tỷ lệ nghèo đa chiều toàn quốc năm 2024 là 4,06%”, Báo Nhân dân điện tử, ngày 10-2-2025
(7) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 84, 85

Nguồn: https://tapchicongsan.org.vn/web/guest/van_hoa_xa_hoi/-/2018/1173702/phat-trien-van-hoa-gan-voi-phat-trien-kinh-te-va-phat-trien-xa-hoi--qua-trinh-tat-yeu%2C-huong-dich-cua-he-muc-tieu-%E2%80%9Cdan-giau%2C-nuoc-manh%2C-dan-chu%2C-cong-bang%2C-van-minh%E2%80%9D.aspx


Bình luận (0)

No data
No data

Cùng chủ đề

Cùng chuyên mục

Vi vu "Sapa thu nhỏ": Đắm say vẻ đẹp hùng vĩ và nên thơ của núi rừng Bình Liêu
Quán cà phê Hà Nội hóa trời Âu, phun tuyết nhân tạo, hút khách
Cuộc sống 'hai không' của người dân vùng lũ Khánh Hoà trong ngày thứ 5 chống lũ
Lần thứ 4 thấy núi Bà Đen rõ ràng hiếm gặp từ TP.HCM

Cùng tác giả

Di sản

Nhân vật

Doanh nghiệp

Quán cà phê Hà Nội hóa trời Âu, phun tuyết nhân tạo, hút khách

Thời sự

Hệ thống Chính trị

Địa phương

Sản phẩm