
Người Ca Dong tham dự lễ cúng máng nước. Ảnh: PHƯƠNG GIANG
Con nước ở rừng mở đầu cho cuộc sống, cho mùa màng, nối tiếp và đi qua nhiều thế hệ như một tín ngưỡng riêng có, một sự tôn thờ. Những bài học dài hơn tuổi đời của mỗi người mở ra, từ con nước…
Lễ cúng máng nước
Con đường vào làng Tăk Nầm (thôn 3, xã Trà Don cũ, nay là xã Nam Trà My) mỏng như sợi dây rừng vắt qua núi. Buổi sáng sớm, sương còn bám trên lá, người làng đã tề tựu rất đông ở đầu làng. Hôm đó, là lễ cúng máng nước.
Lễ cúng máng nước từ lâu trở thành nghi thức quan trọng trong năm của cộng đồng các dân tộc Ca Dong, Xơ Đăng tại Nam Trà My. Già làng Võ Hồng Dương cho biết, cúng máng nước như một ngày Tết của người Ca Dong, đánh dấu thời điểm chuyển giao giữa năm cũ và năm mới.
Tuy nhiên, lễ hội này thường chỉ bó hẹp trong phạm vi một làng. Mỗi làng sẽ tổ chức lễ cúng máng nước vào những thời điểm khác nhau, trong khoảng từ tháng 12 đến tháng 2 của năm sau. “Lễ cúng máng nước để cảm tạ đất trời, thần linh đã ban phước cho dân làng. Lễ cúng còn là dịp để cảm tạ mùa màng bội thu, người làng khỏe mạnh, cuộc sống thanh bình, an toàn cho cả làng,” - già làng Võ Hồng Dương nói.
Dọc con đường làng, nhóm thanh niên đang gùi những ống lồ ô vừa chặt từ rừng. Ống lồ ô thẳng, màu xanh mướt, được cẩn thận treo lên cách mặt đất chừng 1 mét. Ống lồ ô là thứ “vật thiêng” để mang nước về làng sau lễ cúng.

Nước có vai trò rất quan trọng trong đời sống đồng bào vùng cao. Ảnh: ALĂNG NGƯỚC
Tôi nhìn cách họ buộc từng sợi mây, chỉnh từng đầu ống bằng sự nghiêm cẩn, mọi thực hành đều trong lặng yên. Không cần nói, không cần nhắc. Tự thân họ vang lên trong mình những quy tắc buộc phải làm theo, đã được truyền đời từ ông, cha, từ những người đi trước họ. Thực hành và tiếp nối…
Ở một góc khác, những người phụ nữ đang giã gạo, tiếng chày đều đặn vang lên. Gạo được chọn từ mùa vụ mới để cúng dâng nước mới. Rượu cần thì được ủ sẵn trong từng nhà, hơi men sẽ hòa cùng khói bếp mà đậm hơn, ấm hơn khi mời thần nước.
Đến giờ lễ, cả làng nối nhau đi lên rừng. Con đường dẫn đến đầu nguồn là con đường quen thuộc nơi bao thế hệ đã đi qua. Họ đi, dưới một mái nhà lớn của cả cộng đồng, ấy là rừng. Nơi hành lễ chỉ là một khe nước nhỏ. Nước trong vắt, mát lạnh. Già làng đặt ống lồ ô xuống khe suối, cẩn thận dẫn nước chảy theo lòng ống lồ ô. Nơi đầu ống, đã được khéo léo tỉa thân tưa ra, phồng lên như một đóa hoa. Khi giọt nước đầu tiên chảy vào ống, mọi người cùng cúi đầu.
“Nước về rồi, năm mới về rồi”, một thanh niên Ca Dong đứng bên cạnh tôi, bấy giờ mới cất tiếng. Sự nghiêm cẩn khi hành lễ của cả cộng đồng dưới khe nước nhỏ như lời nhắc nhở về thái độ sống của người Ca Dong, người Xê Đăng với rừng, về sự trân trọng và biết ơn thần rừng, thần nước.
Già làng nói, luật tục quy định không ai được xâm phạm, chặt phá bừa bãi ở đầu nguồn nơi lấy nước. Nếu phạm luật, phải nộp phạt cho làng bằng gà, bằng heo, phải tự soi xét và nhận lấy tội lỗi của mình vì đã làm tổn thương mạch nguồn nuôi sống cả làng…
Theo con nước trên ngàn
Người Cơ Tu tin rằng mỗi con suối có linh hồn riêng. Già làng Y Kông (xã Sông Vàng) nói, nhiều miền đất được đặt tên theo sông, theo suối, như Sông Kôn, Sông Vàng.

Nước là nguồn sống của đồng bào miền núi. Ảnh: Người Xê-đăng làm ruộng bậc thang ở núi rừng Ngọc Linh.
Suối ở đó trước người, ở đó từ đời tổ tiên của cộng đồng, nên người phải luôn biết ơn nguồn nước. Như một bản đồ trong tâm thức, nơi nào có nước, nơi đó sẽ có người ở. Nơi nào giữ được nước, sẽ thành làng.
Cũng như nhiều tộc người khác, nước đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong tâm thức và đời sống của người Cơ Tu cánh Tây xứ Quảng. Kể cả những nhóm nhỏ vào rừng tìm mật ong, lấy dây mây, đánh cá, bắt ếch núi, cũng luôn tìm cách hạ trại, dừng chân ở gần nguồn nước.
Tôi có dịp theo chân Alăng Lai, một bạn trẻ ở xã Sông Kôn vào rừng. Lai đứng lại vài giây trước khe suối, khẽ khấn rồi nghiêng chiếc bình mang theo người để lấy nước. Lai nói, nước là của rừng, của thần, muốn lấy gì từ rừng đều phải xin, không thể tùy tiện. Xin để nhớ mình nhận ơn của rừng, của trời đất.
Trong những đêm ngồi bên bếp lửa cùng người Cơ Tu, tôi nghe già làng nói, lũ cuồn cuộn đổ về những năm gần đây, là cơn giận của rừng.
Có những trận lũ hung tàn chưa hề có tiền lệ. Đó là lời nhắc nhở rằng thần linh đã nổi giận, là cái giá phải trả cho sự tham lam vô độ của con người khi xâm chiếm rừng. Đó là kinh nghiệm được trả bằng những năm hạn hán hay những trận mất mùa sấp ngửa vì lũ quét… Và cũng là lời nhắc của già làng, như một lời phán truyền về việc phải ứng xử với Mẹ Rừng, bằng tình yêu và sự tôn thờ.
Trong tập bút ký “Các bạn tôi ở trên ấy”, nhà văn Nguyên Ngọc đã nhắc đến “nước mội”, thứ nước “rỉ ra từ các chân đồi cát, trong veo, mát lạnh, tinh sạch đến mức có thể bụm vào lòng bàn tay, ngửa cổ uống ngay ngon lành”.

Một nghi thức cầu xin may mắn từ thần linh bằng những giọt nước đầu tiên xin từ nguồn. Ảnh: THIỆN TÙNG
Ông nói về nước ở xứ cát, những giọt nước nhỏ bé đã làm nên sự sống lớn lao cho cuối nguồn. Mà ngọn nguồn của mạch nước mội ấy, là xa xăm phía trên kia. Là rừng.
Suối nguồn vùng cao không chỉ là một thực thể tự nhiên, mà luôn hiện diện như một lời nhắc nhở: rừng xanh sinh ra nước, chắt chiu từng giọt nước đổ về sông, sông nuôi bãi bờ xanh hạ du, nuôi lấy biết bao phận người phía cuối nguồn.
Màu mỡ của miền xuôi, có phần đóng góp thầm lặng của những mạch nước tí hon nơi lưng chừng Trường Sơn. Người vùng cao, hơn ai hết, đã hiểu điều đó trước nhất, như một lẽ tự nhiên. Họ đã sống, bằng sự kính ngưỡng riêng có của họ với Mẹ Rừng, để biết quý, biết giữ lấy nguồn, chắt chiu từng giọt nước phía thượng nguồn.
Cúi xuống trước một giọt nước đầu nguồn, học lấy sự khiêm nhường của người vùng cao, để biết ơn những cánh rừng Trường Sơn, biết ơn “người Mẹ” suốt triệu năm đã chắt chiu từng giọt nước, cho đồng bằng…
Nguồn: https://baodanang.vn/nuoc-nguon-3312314.html






Bình luận (0)