Vietnam.vn - Nền tảng quảng bá Việt Nam

Sửa Nghị định 98/2018/NĐ-CP: Gắn kết với phát triển xanh, phát thải thấp

Việc sửa đổi Nghị định 98/2018/NĐ-CP cần được định hướng theo tinh thần đổi mới tư duy, linh hoạt thể chế, số hóa quản trị và gắn kết với phát triển xanh, phát thải thấp.

Báo Nông nghiệp Việt NamBáo Nông nghiệp Việt Nam11/11/2025

Sau hơn sáu năm triển khai Nghị định 98/2018/NĐ-CP về chính sách khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, chính sách khuyến khích hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ nông sản đã tạo được tác động rõ rệt, song cũng bộc lộ nhiều giới hạn trong cơ chế hỗ trợ, thủ tục thực hiện và khả năng thích ứng với bối cảnh mới. Trong giai đoạn tới, việc sửa đổi, hoàn thiện Nghị định 98/2018/NĐ-CP cần được định hướng theo tinh thần đổi mới tư duy, linh hoạt về thể chế, số hóa trong quản trị và gắn kết với phát triển xanh, phát thải thấp.

Mở lối cho chuỗi liên kết xanh, hiện đại

Trước hết, cần chuyển trọng tâm từ "hỗ trợ đầu vào" sang "hỗ trợ theo kết quả" (Output-Based Aid - OBA). Cơ chế hiện nay chủ yếu cấp vốn trên cơ sở hồ sơ dự án, trong khi nhiều liên kết thực chất lại không đủ điều kiện do thiếu năng lực lập dự án. Chính sách mới cần hỗ trợ theo “đầu ra thực tế”, tức là khi chuỗi liên kết chứng minh được kết quả cụ thể như: sản lượng bao tiêu đạt trên 70%, có truy xuất nguồn gốc, đạt chứng nhận tiêu chuẩn kỹ thuật (VietGAP, GlobalGAP, SRP, hữu cơ) và minh chứng được giá trị gia tăng hoặc giảm phát thải, thì được hoàn ứng một phần chi phí đầu tư ban đầu. Cơ chế này vừa tạo động lực duy trì liên kết thực chất, vừa đảm bảo ngân sách nhà nước được sử dụng hiệu quả, minh bạch và công bằng.

Chính sách mới sẽ hỗ trợ chuỗi liên kết đảm bảo truy xuất nguồn gốc, đạt tiêu chuẩn kỹ thuật. Ảnh: Quang Linh.

Chính sách mới sẽ hỗ trợ chuỗi liên kết đảm bảo truy xuất nguồn gốc, đạt tiêu chuẩn kỹ thuật. Ảnh: Quang Linh.

Hai là, cần xây dựng nền tảng số quốc gia về liên kết nông nghiệp, coi đây là hạ tầng quản trị thiết yếu trong thời kỳ chuyển đổi số. Nền tảng này sẽ tích hợp dữ liệu về hợp đồng, vùng nguyên liệu, mã số vùng trồng, truy xuất nguồn gốc, phát thải carbon và hiệu quả chuỗi giá trị. Qua đó, các doanh nghiệp, hợp tác xã, nông dân và cơ quan quản lý có thể truy cập, đối chiếu, và chứng minh tính minh bạch của liên kết. Đây là điều kiện tiên quyết để Việt Nam tiến tới quản lý “một cửa số hóa” đối với chuỗi giá trị nông nghiệp, cũng như tham gia thương mại quốc tế, tín chỉ carbon và thị trường xuất khẩu cao cấp.

Ba là, liên kết nông nghiệp cần được gắn kết chặt chẽ với mục tiêu chuyển đổi xanh, phát thải thấp và thương mại carbon. Các chuỗi liên kết không chỉ mang tính kinh tế, mà còn phải đáp ứng tiêu chuẩn môi trường – sử dụng tài nguyên hiệu quả, quản lý rơm rạ, hạn chế đốt, giảm phát thải khí nhà kính. Chính sách hỗ trợ nên khuyến khích các mô hình sản xuất có đo đạc – báo cáo – thẩm định phát thải (MRV), sản xuất hữu cơ, tuần hoàn và có khả năng tích lũy tín chỉ carbon để giao dịch tự nguyện. Nhà nước cần có hướng dẫn kỹ thuật và cơ chế thí điểm “chuỗi giá trị carbon thấp” để dần hình thành thị trường carbon nông nghiệp.

Đầu tư nghiên cứu là giải pháp nâng cao năng lực hệ thống liên vận hành thực chất. Ảnh: Đăng Anh.

Đầu tư nghiên cứu là giải pháp nâng cao năng lực hệ thống liên vận hành thực chất. Ảnh: Đăng Anh.

Bốn là, cần thiết lập hệ sinh thái tư vấn liên kết chuyên nghiệp, đóng vai trò cầu nối giữa chính sách – doanh nghiệp – hợp tác xã – thị trường. Trong bối cảnh phần lớn HTX và DN nhỏ vẫn yếu về năng lực lập kế hoạch, quản lý hợp đồng, truy xuất và chuẩn hóa quy trình, Nhà nước cần đặt hàng các tổ chức tư vấn, viện nghiên cứu, trường đại học và doanh nghiệp dịch vụ nông nghiệp cung cấp dịch vụ tư vấn, đào tạo, hỗ trợ lập kế hoạch liên kết. Đây là giải pháp “đầu tư vào năng lực” thay vì “hỗ trợ ngắn hạn”, giúp hệ thống liên kết vận hành thực chất và tự chủ hơn.

4 lĩnh vực trọng tâm đổi mới 

Trọng tâm sửa đổi Nghị định 98 cần hướng đến đơn giản hóa thủ tục, tăng tính minh bạch và khuyến khích liên kết theo chuỗi giá trị bền vững.

Trước hết, cần sửa đổi Điều 4 (Nội dung liên kết) để mở rộng nội hàm liên kết không chỉ giới hạn trong “cung ứng - sản xuất - tiêu thụ”, mà còn bao gồm các yếu tố mới như: truy xuất nguồn gốc điện tử, tiêu chuẩn kỹ thuật (VietGAP, SRP, hữu cơ), quản lý rơm rạ, đo đạc và chia sẻ tín chỉ carbon. Đồng thời, cần quy định bắt buộc các bên liên kết phải có cam kết chia sẻ rủi ro, cơ chế điều chỉnh giá khi thị trường biến động và phương thức giải quyết tranh chấp.

Điều 5 (Điều kiện hỗ trợ) cần được điều chỉnh từ “có hợp đồng bằng văn bản có xác nhận của chính quyền” sang cơ chế “công bố hợp đồng và chịu trách nhiệm pháp lý”, cho phép sử dụng hợp đồng điện tử có chữ ký số, lưu trữ trên nền tảng số thay cho bản giấy. Điều này vừa giảm thủ tục hành chính, vừa thúc đẩy tính tự chủ và trách nhiệm của các bên trong chuỗi.

Về các chính sách hỗ trợ (Điều 6-9), cần bổ sung một số nội dung mới, bao gồm: hỗ trợ truy xuất điện tử, đo phát thải MRV, nền tảng quản lý số hóa, thương mại điện tử, bảo hiểm nông nghiệp và chia sẻ rủi ro chuỗi. Đặc biệt, trong Điều 7 và 8, cần chính thức bổ sung cơ chế hỗ trợ theo kết quả (Output-Based Aid), cho phép hoàn ứng tối đa 30% chi phí đầu tư ban đầu nếu liên kết đạt tiêu chí về bao tiêu, tiêu chuẩn và truy xuất. Cơ chế này được quy định chi tiết tại Điều 7 (sửa đổi) và Điều 8 (bổ sung) trong dự thảo sửa Nghị định. Ngoài ra, nên thêm Điều 7a (mới) về “Phát triển hệ sinh thái tư vấn liên kết”, quy định rõ trách nhiệm của Bộ Nông nghiệp và Môi trường trong việc công bố danh sách tổ chức tư vấn đủ điều kiện, cung cấp bộ công cụ hỗ trợ kỹ thuật (mẫu kế hoạch, hợp đồng mẫu, hướng dẫn truy xuất, hợp đồng điện tử), và cơ chế đồng chi trả chi phí tư vấn giữa ngân sách và doanh nghiệp/HTX.

Cùng với đó, chính sách cần thiết lập bộ chỉ số đánh giá chuỗi liên kết bền vững làm căn cứ phân tầng hỗ trợ, bao gồm: mức độ tiêu chuẩn hóa, tỷ lệ truy xuất, sản lượng bao tiêu, mức giảm phát thải, và hiệu quả thu nhập nông dân. Những chuỗi liên kết đạt tiêu chuẩn cao, xuất khẩu hoặc phát thải thấp cần được hưởng ưu đãi cao hơn.

Hạ tầng dữ liệu là nền tảng cốt lõi để triển khai liên kết hiện đại. Ảnh: Tạp chí doanh nghiệp.

Hạ tầng dữ liệu là nền tảng cốt lõi để triển khai liên kết hiện đại. Ảnh: Tạp chí doanh nghiệp.

Ngoài ra, cần xây dựng nền tảng số quốc gia về chuỗi giá trị nông sản, kết nối toàn bộ HTX, doanh nghiệp, cơ quan quản lý và ngân hàng. Hệ thống này tích hợp các cơ sở dữ liệu: vùng nguyên liệu, mã số vùng trồng, hợp đồng, sản lượng, truy xuất nguồn gốc, chỉ số phát thải và thông tin chứng nhận.

Các địa phương được khuyến khích thiết lập cổng dữ liệu vùng kết nối trực tiếp với hệ thống trung ương, phục vụ quản lý theo thời gian thực. Đây không chỉ là công cụ kỹ thuật mà còn là điều kiện bắt buộc để hưởng chính sách hỗ trợ, tương tự như mô hình truy xuất TraceThai của Thái Lan hay cơ sở dữ liệu nông nghiệp số của Trung Quốc.

Bên cạnh đó, cần quy định rõ trách nhiệm của Sở Nông nghiệp và Môi trường trong việc đồng bộ dữ liệu vùng nguyên liệu với các chương trình khác như OCOP, Nghị định 45/2021 về vùng nguyên liệu, Quyết định 1088/QĐ-BNN-KTHT và Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao, phát thải thấp vùng ĐBSCL.

Về nguồn nhân lực và tổ chức, phát triển liên kết nông nghiệp đòi hỏi năng lực quản trị chuỗi, kỹ năng pháp lý, tài chính và công nghệ số. Do đó, cần triển khai chương trình đào tạo và chứng nhận năng lực quản trị chuỗi liên kết cho cán bộ HTX, doanh nghiệp, tổ chức khuyến nông và cơ quan quản lý địa phương. Nội dung đào tạo phải bao gồm: kỹ năng lập kế hoạch liên kết, quản lý hợp đồng điện tử, thương lượng giá, truy xuất dữ liệu và sử dụng nền tảng số.

Đồng thời, nên tiếp tục hỗ trợ các tổ chức, cá nhân, nhóm tác nghiệp để thực hiện tư vấn và hỗ trợ liên kết vùng, hoạt động theo mô hình đối tác công – tư (PPP), nhằm kết nối HTX – DN – ngân hàng – viện trường. Các trung tâm này có nhiệm vụ hỗ trợ kỹ thuật, cung cấp dịch vụ tư vấn, giám sát hợp đồng và thúc đẩy các mô hình liên kết trọng điểm.

Về tài chính và đầu tư, cần áp dụng cơ chế đồng đầu tư công - tư (PPP) trong phát triển hạ tầng vùng nguyên liệu, ưu tiên cho các dự án có liên kết chuỗi giá trị và tiêu chuẩn xuất khẩu. Ngân sách nhà nước nên hỗ trợ một phần vốn đầu tư hạ tầng nhẹ (đường nội đồng, kho bảo quản, logistics lạnh, trạm sấy, hệ thống xử lý phụ phẩm sinh học), trong khi doanh nghiệp và HTX đầu tư phần sản xuất và chế biến. Bên cạnh đó, cần mở rộng tín dụng chuỗi giá trị, cho phép ngân hàng cấp vốn dựa trên hợp đồng liên kết và dữ liệu truy xuất thay vì tài sản thế chấp, kết hợp với cơ chế bảo lãnh tín dụng liên kết tương tự mô hình Malaysia. Nhà nước có thể hỗ trợ lãi suất hoặc bảo lãnh 30-50% khoản vay cho các chuỗi liên kết đủ điều kiện.

Ngoài ra, cần triển khai mạnh mẽ bảo hiểm nông nghiệp và quỹ chia sẻ rủi ro chuỗi, nhằm giảm thiểu tổn thất do thiên tai, dịch bệnh, biến động giá. Các chuỗi liên kết có hợp đồng bao tiêu, áp dụng tiêu chuẩn kỹ thuật hoặc sản xuất phát thải thấp nên được ưu tiên hỗ trợ bảo hiểm hoặc hỗ trợ phí tham gia quỹ.

Liên kết nông nghiệp trong giai đoạn mới không chỉ là hợp đồng giữa các bên, mà phải trở thành hệ sinh thái hợp tác bền vững, nơi dữ liệu, niềm tin và trách nhiệm cùng được định lượng hóa. Khi đó, Nhà nước không chỉ "hỗ trợ" mà trở thành người kiến tạo cơ chế, còn doanh nghiệp, hợp tác xã và người nông dân là những chủ thể đồng kiến tạo giá trị mới cho nền nông nghiệp Việt Nam.

Nguồn: https://nongnghiepmoitruong.vn/sua-nghi-dinh-98-2018-nd-cp-gan-ket-voi-phat-trien-xanh-phat-thai-thap-d783455.html


Bình luận (0)

No data
No data

Cùng chủ đề

Cùng chuyên mục

Hồng treo gió - vị ngọt của mùa thu
Quán “cà phê nhà giàu” trong ngõ ở Hà Nội, bán 750.000 đồng/ly
Mộc Châu mùa hồng chín, ai đến cũng ngẩn ngơ
Dã quỳ nhuộm vàng phố núi, Đà Lạt vào mùa đẹp nhất năm

Cùng tác giả

Di sản

Nhân vật

Doanh nghiệp

G-Dragon bùng nổ cùng khán giả trong đêm diễn tại Việt Nam

Thời sự

Hệ thống Chính trị

Địa phương

Sản phẩm