Thiết lập “luồng xanh” từ vườn đến cửa khẩu
Việt Nam hiện là một trong những quốc gia có diện tích trồng sầu riêng tăng nhanh nhất khu vực, với kỳ vọng kim ngạch xuất khẩu đạt 3-4 tỷ USD/năm. Tuy nhiên, tiến trình xuất khẩu chính ngạch sang Trung Quốc đang gặp không ít trở ngại, đặc biệt trong khâu thông quan. Hiện tại, thời gian thông quan trung bình cho một container sầu riêng kéo dài từ 7-10 ngày, trong khi Thái Lan chỉ mất 2 ngày.
Trao đổi với phóng viên Báo Công Thương, ông Đặng Phúc Nguyên, Tổng Thư ký Hiệp hội Rau quả Việt Nam nhấn mạnh: “Việt Nam cần sớm thiết lập hệ thống giám sát chất lượng ngay từ vườn trồng. Đây là điều kiện tiên quyết để đàm phán với Trung Quốc mở cơ chế “luồng xanh – green lane” riêng cho sầu riêng, giảm chi phí và hạn chế tổn thất do chờ thông quan kéo dài”.
Kinh nghiệm từ Thái Lan cho thấy, họ hiện có hơn 300 phòng xét nghiệm mini trải khắp các vùng trồng sầu riêng, giúp kiểm tra nhanh các chỉ tiêu kim loại nặng như Cadimi và vàng O. Tỷ lệ thông quan thành công của Thái Lan hiện đạt trên 99%, nhờ quy trình kiểm soát chặt chẽ này. Đây cũng là cơ sở để nước bạn đề xuất cơ chế thông quan nhanh, hạn chế kiểm tra ngẫu nhiên.
Ông Đặng Phúc Nguyên cho biết thêm: “Với kinh nghiệm kiểm tra nhanh chỉ tiêu kim loại nặng và chất cấm của Thái Lan. Việt Nam hoàn toàn có thể học hỏi mô hình này để kiểm tra tại chỗ và giảm áp lực cho cửa khẩu”.
Tại Việt Nam, nhà vườn muốn bán hàng cho doanh nghiệp xuất khẩu bắt buộc phải có giấy chứng nhận không tồn dư các chất như vàng O và Cadimi. Các lô hàng sau đó tiếp tục được kiểm nghiệm lần hai tại phòng Lab do Việt Nam và Trung Quốc cấp phép, trước khi đưa đến cửa khẩu.
Ngoài ra, việc tăng cường năng lực cho các phòng thí nghiệm nội địa, giám sát an toàn thực phẩm và kiểm dịch thực vật tại chỗ cũng rất quan trọng. Những vi phạm liên quan đến dư lượng hóa chất cần được xử lý nghiêm, đồng thời công khai danh tính doanh nghiệp vi phạm để tạo tính răn đe.
Hướng đi nâng cao giá trị và mở rộng thị trường
Một trong những vấn đề cốt lõi hiện nay chính là tổ chức sản xuất chưa bài bản. Chất lượng sầu riêng phụ thuộc trực tiếp vào điều kiện canh tác, phương pháp chăm sóc, sử dụng thuốc bảo vệ thực vật và tuân thủ quy chuẩn vùng trồng.
“Hiện tượng mượn mã số vùng trồng hay gian lận nhật ký canh tác vẫn còn xảy ra tại một số địa phương, nếu không kiểm soát chặt sẽ ảnh hưởng uy tín ngành hàng”, ông Nguyên cảnh báo.
Do đó, các địa phương cần siết chặt quản lý và thường xuyên kiểm tra định kỳ việc sử dụng mã số vùng trồng và cơ sở đóng gói. Việc xây dựng cơ sở dữ liệu minh bạch, số hóa toàn bộ quy trình truy xuất nguồn gốc sẽ giúp nâng cao độ tin cậy với đối tác nhập khẩu.
Song song đó, quy hoạch vùng trồng chuyên canh theo hướng bền vững là điều tất yếu. Nhà nước cần có chính sách định hướng, hạn chế tình trạng mở rộng ồ ạt dẫn đến phá vỡ quy hoạch và nguy cơ dư thừa nguồn cung. Việc khuyến khích các hợp tác xã, doanh nghiệp và người dân tham gia liên kết “4 nhà” sẽ giúp đảm bảo chất lượng đồng đều, đầu ra ổn định và dễ tiếp cận thị trường xuất khẩu hơn.
Ngoài ra, cần sớm ban hành các quy chuẩn trồng trọt phòng ngừa tồn dư Cadimi, kim loại nặng và chất cấm. Kiểm soát chặt thị trường vật tư nông nghiệp, đặc biệt là các chế phẩm phân bón, thuốc bảo vệ thực vật có chứa các thành phần bị cấm, cần được xem là ưu tiên.
Đồng thời, tập huấn thường xuyên cho nông dân về kỹ thuật canh tác an toàn, sử dụng hóa chất theo nguyên tắc “4 đúng” (đúng thuốc, đúng lúc, đúng liều lượng và đúng cách) sẽ giúp nâng cao nhận thức và hành động thực tiễn ngay từ cơ sở.
Cũng theo ông Đặng Phúc Nguyên: “Việc quy hoạch vùng trồng sầu riêng phải theo hướng bền vững, hạn chế mở rộng tự phát. Nhà nước cần khuyến khích doanh nghiệp, hợp tác xã và nông dân tham gia liên kết "4 nhà" để đồng bộ chất lượng và đảm bảo đầu ra xuất khẩu”.
Một trong những giải pháp bền vững và lâu dài là phát triển công nghiệp chế biến. Tỷ lệ thất thoát sau thu hoạch của sầu riêng vẫn còn cao, do hạn chế về công nghệ bảo quản. Đầu tư vào hệ thống kho lạnh, kho mát, công nghệ bảo quản tiên tiến như CAS (Cells Alive System) sẽ giúp kéo dài thời gian lưu trữ mà vẫn giữ chất lượng, đặc biệt trong giai đoạn cao điểm thu hoạch.
Không dừng lại ở quả tươi, Việt Nam cần đẩy mạnh chế biến sâu để đa dạng hóa sản phẩm. Sầu riêng đông lạnh, sấy khô, bánh kẹo, kem từ sầu riêng...là những mặt hàng có tiềm năng lớn, không chỉ giải quyết đầu ra trong mùa vụ mà còn mở rộng sang các thị trường khác với giá trị cao hơn. Đàm phán mở rộng xuất khẩu chính ngạch các sản phẩm chế biến sâu sang thị trường Trung Quốc và các nước Đông Bắc Á cũng là nhiệm vụ then chốt.
“Phát triển công nghiệp chế biến là hướng đi bắt buộc để giảm áp lực cho trái sầu riêng tươi và nâng cao giá trị. Những sản phẩm như sầu riêng đông lạnh, sấy khô hay các loại bánh kẹo sẽ giúp kéo dài thời gian tiêu thụ và mở rộng thị trường xuất khẩu”, ông Nguyên nhấn mạnh.
Việc quy hoạch và hình thành các cụm công nghiệp chế biến gắn với vùng nguyên liệu sẽ giúp tối ưu chi phí logistics, đảm bảo chất lượng đầu vào và tạo chuỗi sản xuất, tiêu thụ hiệu quả.
Thị trường quốc tế ngày càng đặt ra yêu cầu cao về chất lượng, an toàn thực phẩm và truy xuất nguồn gốc. Để khẳng định chỗ đứng vững chắc, Việt Nam không thể chỉ trông chờ vào tăng sản lượng mà phải xây dựng chuỗi giá trị minh bạch, bền vững và trách nhiệm.
“Để đứng vững trên thị trường quốc tế, Việt Nam không thể chỉ trông vào tăng sản lượng mà phải xây dựng chuỗi giá trị minh bạch, truy xuất nguồn gốc rõ ràng và đảm bảo tiêu chuẩn an toàn thực phẩm”, ông Đặng Phúc Nguyên đề xuất.
Nguồn: https://baoquangninh.vn/thao-nut-that-cho-sau-rieng-can-luong-xanh-thong-quan-3360356.html
Bình luận (0)