Trong Cẩn Trai thi tập, trên Đồng Nai cuối tuần có giới thiệu một bài thơ Quất xã táo ti, địa danh ở Bình Phước cũ, bài thứ 10 trong Gia Định tam thập cảnh, một phần trong Cẩn Trai thi tập. Ngoài ra, Trịnh Hoài Đức còn có 18 bài thơ viết bằng chữ Nôm, gọi gọn là thơ Nôm.
Công bằng văn chương mà nói, thơ Nôm của Trịnh Hoài Đức không thể nào sánh với sáng tác của bà Huyện Thanh Quan hoặc “bà chúa thơ Nôm” Hồ Xuân Hương, thậm chí còn ít ấn tượng so với thơ Nôm của vua Lê Thánh Tông tận thế kỷ XV. Thế nhưng, 18 bài thơ Nôm của Trịnh Hoài Đức được cho là ông sáng tác khi đi sứ sang nhà Thanh thời kỳ vua Gia Long mới lên ngôi và các bài làm theo thể liên hoàn, có cách gọi khác là liên vận. Những tài liệu khác nhau chưa xác định 18 bài thơ Nôm của Trịnh Hoài Đức nằm trong Bắc sứ thi tập hoặc Đi sứ cảm tác. Có lẽ vì là thơ Nôm nên người đời sau xếp 18 bài này trong phần Đi sứ cảm tác trong sự nghiệp thơ văn của ông. Còn Bắc sứ thi tập thì có nhiều bài ông viết bằng chữ Hán, thường gọi là thơ chữ Hán.
Có điều này tham khảo, trong Bắc hành thi tập, Nguyễn Du sáng tác bằng chữ Hán trong khi Trịnh Hoài Đức viết bằng chữ Nôm. 2 ông coi như người cùng thời, Nguyễn Du có bài thơ tặng Ngô Nhơn Trịnh trong Gia Định tam gia cũng đã được giới thiệu trên Đồng Nai cuối tuần.
18 bài thơ Nôm của Trịnh Hoài Đức sáng tác lúc đi sứ sang nhà Thanh theo thể liên hoàn/liên vận, cụ thể là 2 chữ cuối cùng của câu kết trong bài thơ Đường luật thất ngôn bát cú (7 chữ 8 câu) được dùng làm 2 chữ đầu cho câu mở (khởi đề). Tất cả 18 bài đều không có tựa, chỉ đánh số từ 1-18. Như bài 1 có 2 câu kết: “Chừ gặp cố nhân bày khoản khúc/ Kẻo đây thương đó, đó ngùi trông” thì 2 chữ “ngùi trông” mở đầu cho bài 2: “Ngùi trông nên phải gắng chìu lòn/Tháng Tý, ngày Dần đến Úc môn”.
Bài 2 kết thúc bằng câu: “Chẳng sau chằng trước cũng đen mòn” và bài 3 mở đầu là: “Đen mòn sao đặng nghĩ cùng ta”. Cứ vậy, đến bài 17 kết thúc là: “Song lo thời thế vẫn chưa yên” và bài 18 mở đầu là: “Chưa yên ta phải tính làm sao”.
Thơ Trịnh Hoài Đức giàu lòng yêu quê hương, đất nước qua việc cụ thể là ca ngợi 30 cảnh đẹp ở Gia Định. Riêng trong thơ Nôm, viết bằng chữ Nôm, phát âm tiếng Việt cụ thể hơn thì ông còn thể hiện lòng trung quân ái quốc của người theo phò chúa Nguyễn Ánh, sau này lên ngôi là Gia Long ngay từ đầu.
Thơ Đường thất ngôn bát cú người ta thường chú ý đến 2 cặp câu thực 3, 4 và luận 5, 6.
Chiếm tỷ lệ cao trong 18 bài thơ Nôm của Trịnh Hoài Đức thể hiện nội dung này, như bài 2:
Ngàn dặm ơn sâu lai láng biển,
Muôn trùng nghĩa nặng chập chồng non.
Dưới trời ai dễ không tôi chúa,
Trên đất người đều có vợ con.
Bài 3 có 2 câu luận (câu 5, 6):
Trăng tròn mặt ủ mây chưa vén,
Biển mặn lòng thương nước khó pha.
Thơ Nôm Trịnh Hoài Đức cũng mang chuyện đời thường và vì ông là quan nhất nhị phẩm triều đình, nên:
Mây mịt mù che trời nhớ bạn
Nước mênh mông chảy bể trông vua
(Bài 6)
Hoặc:
Chớp lụy anh hùng khi tác biệt
Bày lòng trung nghĩa đạo vi thần
(Bài 12)
Trần Chiêm Thành
Thơ Nôm Trịnh Hoài Đức được biết đến qua Gia Định tam gia do Hoài Anh biên soạn và trong sách này thường có cước chú là “có sách khác chép…”, tạm gọi là những dị bản. Chữ Nôm thì rất nhiều trường hợp đồng dạng nhưng dị âm, chưa kể lỗi do khâu khắc in… Tình cảm, nghĩa cử đáng ghi nhận là Trịnh Hoài Đức đi sứ sang nhà Thanh, cảm tác thơ bằng chữ tiếng mẹ đẻ thể hiện lòng mình, đó là di sản của người đời trước.
Nguồn: https://baodongnai.com.vn/dong-nai-cuoi-tuan/202510/tho-nom-trinh-hoai-duc-00a022d/
Bình luận (0)